Search This Blog

Friday, April 7, 2023

Việt hay Champa?

 

Việt , là cách người trên đất nay là Việt Nam đặt âm cho các chữ Hán 越 hay 粵, được người Hán dùng để chỉ chung nhiều dân tộc phía nam Trung Quốc. Phát âm theo tiếng Quan Thoại là yuè, theo tiếng Quảng Đông là jyut. Khái niệm này được các nhà nước thời kỳ độc lập, trên khu vực tạm gọi là Đông Lào, theo mô hình Trung Hoa, sử dụng làm tên quốc gia, sau đó mới có tên là dân tộc Việt, người Việt.

Champa (Campā), hay còn gọi là Chăm, Chàm, Chiêm …là tên gọi bắt nguồn từ một từ tiếng Phạn là Campāpura, tên của một thành bang thời cổ, nằm bên bờ sông Hằng của Ấn Độ. Khái niệm này được các nhà nước, cũng trên khu vực Đông Lào, theo mô hình Ấn Độ, sử dụng làm tên quốc gia, sau đó mới có tên dân tộc Champa, người Champa.

 

Vậy thì trước khi có các tên gọi đó, sự liên hệ giữa hai dân tộc là như thế nào?

 

Một công cụ tương đối dễ hiểu và rất thường được sử dụng để tìm mối liên hệ giữa các dân tộc, là so sánh ngôn ngữ, bởi ngôn ngữ dù luôn biến đổi theo thời gian nhưng thường là một tiến trình rất dài và luôn để lại dấu vết

 

Do khuôn khổ bài viết, bảng so sánh từ vựng chỉ bao gồm mô tả con người và các hoạt động.

 

GHI ÂM TIẾNG CHÀM   

TỪ TIẾNG VIỆT TƯƠNG ĐƯƠNG

akok

óc, đầu. Xanưng pachah akok = nghĩ nát óc.

amek

mẹ

atak kan/ kanư

khấn

athah tung

thỏa bụng, hài lòng

atoh ru

hát ru

atuk

tục, lóng

bai

tế

Băng dih/ndih daok

ăn nằm

bek

vẻ, dấu hiệu

bôh

thấy, chộ (phương ngữ Bắc Trung Bộ)

bơk

bẻ, uốn

căn

cân (cái cân, việc cân)

chabôi

môi

chađip

díp, khép

chang dău

y chang nhau, như nhau

channău

ngón

chao chik

keo kiệt, hà tiện

chăp

chấp

chăt

thật

chaua

chửi bới

cheh

chế ra, nặn ra

chiăk

cắt

chiên

tiền

chioi

giỏi

chiơng

thành, trưởng thành

choh

thọt, què

chôi

thôi, đừng

chok

khóc lóc

chơk

nói dóc

chroh

xối, xả

chuăk

cợt, giễu

chuk

luồn, chui

chum

hôn, thơm

chum

chụm, góp

dak

giơ lên

dăn

rặn

day

đầy, lắm

dơik

hỡi

đôk

đòi

eh

ẻ, ỉa. Chroh = ỉa chảy, ỉa rót

eh rôi

nốt ruồi

êu

kêu, gọi

hăk

hệt

hakê

kệ, kể chi

hakun

hun khói

halăk

người lạ

hanoh

giận, hận

hao

hao, tốn

harăt

rặt, thuần

harơh

ghê, rợn

hatah

tỏ, sáng

hatuc

tấm tức

hiêp

hiếp

hok

hóc

huik

húp, hớp

huit

huýt sáo

ia khik

khí, tinh dịch

iop

tóp, teo

ita

ta, tôi

kachôi ka

đợi đã

kahề

hề, hài

kalàik

lại, tiếp

kalek

thọc lét

kami/ita

ta, tôi

kamlo

câm

kăn

khó, căng

kanhik

nhợt, tái

kanik

chật

kaơk

chưng cất

kapak

bước đi, đi bộ

kapơ

thờ ơ, bơ

kati

ty

kău

tau, tao

kăuk

tộc

kek

cắn

khăm

hăm

khăn ao

khăn áo

khăt

hẳn

khô

khổ

khơh

khéo

khom

kiet

sít sao, kiết

kinòng

nóng, giận

kiràk

xê ra

klon

trôn

klu

dái

koc

gốc. Lihik kok mất gốc

kơh

gợi

kok

bà cố

kok kalok

c.ặc, quy đầu

kuah

cạo

lakău

cầu, xin

lang kan

khấn

leh

trảy hội

lek

lọt, sa, rơi

liah

liếm

likuk

cuối, hậu

lok

lóc, lột

mbaok/bok

mặt

mih

mà (tr)

mưhu

muốn, thèm

muk

mưluk

lú lẫn

mưngah

giả

mưnưk

sinh nở

mưta/mâta

mắt

mưxăc

hỗn, xấc

neh

nhi, trẻ nhỏ

ngut

ngủ gật

nha

nhà

nhom

nhóm họp (đg)

oan

oan

ok

ói

ong/aung

ông

ot

la ó

Pabah dalah

miệng lưỡi

Pabah mbeng

miệng ăn.

pachay

chàng

pachoh

so, so sánh

pachoh

chọi

pachup

giúp

padap

đập, chế ngự

pađik

đau, nhức

pah

vả, tát

pak/bak

bốn

pakăp

cặp, sánh

palặk

lặp

panôik

chuyện

paplay chiuk

bán chịu, bán thiếu

paplay đôik

bán đắt hàng

papok

gói, bó

pasai

sai bảo

pasut

xúi, xút

patăm

tẩy  (gần nghĩa tắm)

pathău

tâu

pek

bẹo, véo

plơk

giở

pôik

nói

pôik neh

nài nỉ

pôk

mở

prai

rải

pre

rè, khàn

prêu

réo

prôik

ruột

pui

vui

radăm

đậm, xẫm

rău

rầu

ravơk

rờ, sờ

riăk

ác, hung

riăk

rán, thắng (mỡ)

rineh kateh

trẻ ranh, trẻ nhỏ

rôn

ồn, rộn

ruh

giũ, rủ

rui

rút, thu hồi

ruik

rứt

sak

xấu

siu liu

ỉu xìu

sơh

sướng, khoái

tachay

chỉ, trỏ

Tacho tachek

cháu chắt

tadah

tàn, hư nát

taha

già

tait

yên ổn

tak

tại (vị trí)

tăk

thà

takai

chân

talàh

lưỡi

taluik

(con) út

tăn

táng, chôn

tanăk

nấc, thứ tự

tangi

tai

tangin

tay

tanưk

nấu

tapô

tariêng

siêng

tăuk

tim

thah

thỏa

thăn

thân (d), phận, thân phận

that tiăk

trung thành, thật tình

thău

thấu, hay biết, hiểu biết

thêt

khao

thi

thì, sẽ

thiam

thắm, đẹp

tho

cầm, thó

thok

thọc, giã

thuuk

thưa

tiauk

tống

tơ/dơ

tựa, như. Prong dơ kăuk = rộng như nhau

truh

từ bỏ

trưk

sực, xực

tuah

tìm

tuc

lúc

tuik

tội (d)

tung

bụng

tung

túm, níu

ưng

muốn, ưng

xăk

thể xác

xêh

xinh

 

Sự tương đồng là rất lớn.  

Ngoài ra thì cách tạo từ có nét giống nhau. Ví dụ từ thăn, tương ứng với từ thân, vừa để chỉ thân xác lại vừa để chỉ thân phận.

Nếu không bị giới hạn các khái niệm Việt hay Champa (Chiêm Thành) thì chúng ta có thể nói rằng họ từng là một dân tộc, trong khoảng thời gian rất dài, và người Champa còn lưu giữ rất nhiều từ ngữ cổ của dân tộc. Ngoài ra, một dấu hiệu khá rõ, là phát âm của người Việt ở khu vực Quảng Nam và lân cận nằm ở trung gian giữa tiếng Việt hiện đại và tiếng Champa

Như vậy, rất có thể ngôn ngữ Quảng Nam được phát triển từ ngôn ngữ Champa, cổ hơn ngôn ngữ phía bắc. Ngôn ngữ cổ từ Quảng Nam lan ra phía bắc chứ không phải do phía bắc đưa vào.

Chúng ta thử xem lại câu chuyện Nam tiến của người Việt.

Hai sự kiện lớn liên quan đến câu chuyện khai phá từ vùng Quảng Nam trở vào, là cuộc đánh chiếm của Đại Việt vào năm 1471 và sự kiện lập nghiệp của Nguyễn Hoàng, từ năm 1558.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, tháng 3 năm 1471 quận Đại Việt hạ kinh thành Chà Bàn, đặt đơn vị hành chính trên nước Chiêm, sau đó đã cho người Chiêm đầu hàng là Ba Thái làm đồng tri châu Đại Chiêm, Đa Thủy làm thiêm tri châu. Lại cho Đỗ Tử Quy làm đồng tri châu tri Đại Chiêm quân dân sự, Lê Ỷ Đà làm tri châu Cổ Lũy tri quân dân, người Chiêm có ai dám không theo, cho giết rồi tâu sau. Tháng 6, lấy đất Chiêm Thành làm thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa, đặt ba ty ở Quảng Nam.

Tháng 9 năm 1472 Lê Thánh Tông sai xét họ tên của người Chiêm, người Man, họ của người Chiêm thì họ mới họ cũ theo đúng quy chế, họ của người Man thì dồn lại làm một, nếu tên nhiều chữ thì chỉ để lại  ba chữ thôi…  

Theo Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm, một đại thần ở Đàng Trong thời Nam Bắc phân tranh, năm 1558 Nguyễn Hoàng chỉ mang theo được 1000 quân, đi bằng đường thủy.

Rõ ràng, không có làn sóng di cư nào cả. Dân chúng ngoài bộ phận chạy theo vua Chiêm về phía nam, còn lại thì thành dân Đại Việt, mang họ theo quy chế do nhà nước Đại Việt ban hành. Dân phía bắc vào nam thì ngôn ngữ hẳn sẽ bị hòa tan vào bản địa, chứ không phải thay thế.

 

Bằng các công cụ lịch sử và địa lý, tôi đã chứng minh được rằng tồn tại một thể chế từng thống nhất toàn bộ lãnh thổ tiền thân của Đại Việt và Champa. Đó là nhà nước Lâm Ấp, theo khối văn minh Ấn Độ, từ cuối thế kỷ 2 đến năm 604. Thực ra thì có thể nói rằng lãnh thổ này còn bao gồm cả phía cực nam của Quảng Tây và Vân Nam cũng như một phần khá lớn ở trên đất ngày nay thuộc Lào. Đó là cơ sở giúp giải thích được việc thống nhất ngôn ngữ ở đồng bằng từ miền Bắc vào miền Trung, như nói ở trên. Ngoài ra còn giúp giải thích được việc hình thành hệ thống âm Hán Việt, mà tôi đã tìm thấy trên 500 từ chịu ảnh hưởng của âm Chàm, chỉ trong ít ngày.

Triều đình Lâm Ấp bị nhà Tùy đánh bật khỏi miền đồng bằng từ Bắc Bộ cho đến bờ bắc sông Cả. Khu vực bị người Hán xâm chiếm và ít nhiều đồng hóa, sau ba thế kỷ thì dành độc lập, rồi trở thành nhà nước Đại Việt. Thượng du phía tây và đất phía nam vẫn theo chế độ Lâm Ấp.

Mặc dù cả hai phía đều có sự thay đổi triều đại và cả quốc hiệu, nhưng về cơ bản thì một nhà nước theo ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa và một nhà nước vẫn giữ ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ.

Cuộc chiến mở rộng của phía Đại Việt bắt đầu từ đầu giai đoạn độc lập. Từ triều đại Đinh, Lê đến đầu triều Lý, năm 1011, Đại Việt mới chinh phục về phía tây đến được đất Cử Long, nay thuộc vùng Cẩm Thủy, cách bờ biển ở Thanh Hóa khoảng 60km. Theo thần phả đền Quả Sơn, hoàng tử Lý Nhật Quang hi sinh trong trận chiến với Chiêm Thành, bị chém ngang cổ nhưng đầu không lìa, đến núi Quả thì ngựa quỵ xuống, năm 1057. Câu chuyện ít nhiều có tính chất huyền thoại, nhưng đền Quả Sơn thì vẫn còn đó, cách bờ biển Nghệ An chưa tới 40km. Đại Việt sử ký toàn thư còn cho biết năm 989 một viên quản giáp của Lê Hoàn là Dương Tiến Lộc đem hai châu Hoan Ái theo Chiêm Thành, vua đuổi bắt được Tiến Lộc, giết người hai châu ấy không biết bao nhiêu mà kể. Có thể nói rằng đất Thanh Nghệ là biên giới, là chiến trường trong nhiều thế kỷ.

Sử của chúng ta chịu sự chi phối bởi ý thức hệ của các triều đình phong kiến Đại Việt, chép về Champa không có sự khách quan, do đó mà xóa đi rất nhiều sự thực về lịch sử và văn hóa dân tộc.

 

Viết thêm:

 

Tôi sẽ vận dụng kết quả đạt được để giải thích một số vấn đề nhỏ, trong bài viết này.

 

1.       Tại sao chế độ Champa bị thất bại trước Đại Việt và bị phần lớn người dân của mình lãng quên.

Một nguyên nhân giải thích cho sự thất bại, là nhà nước Champa vận hành theo tính chất phân quyền, liên minh, lỏng lẻo hơn mô hình tập quyền của Đại Việt, nên không phù hợp trong việc huy động lực lượng trong các cuộc tranh chấp.

Một nguyên nhân giải thích việc họ bị lãng quên nhanh chóng, là do xã hội Champa có tính chất phân hóa đẳng cấp rất rõ rệt, theo kiểu Ấn Độ. Thường dân không có sự gắn kết với tầng lớp cai trị, như là thuộc về một thế giới khác, nên khi chế độ Champa bị đánh bật đi thì dễ dàng bị lãng quên, nhất là trong hoàn cảnh các triều đình Đại Việt rất biết cách vận dụng tư tưởng đồng hóa học được từ người Trung Hoa.

2.       Tại sao dân chúng từ Quảng Nam trở vào không gọi người con đầu là cả mà lại gọi là hai.

Trong tín ngưỡng Champa có các danh hiệu tôn quý là Kadhar hay po Acar. Người phía nam vốn theo tín ngưỡng Champa trong khoảng thời gian rất lâu dài, họ không gọi thằng Cả, con Cả là để tránh tên các vị này.

 

3.       Tại sao ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và Thanh  Nghệ lại có tục lệ bốc mả và họ gọi việc này là ‘sang cát’

Người Champa theo tín ngưỡng Bà la môn có tập tục đem phần xương trán người chết sau khi đã hỏa táng vào nghĩa trang của gia tộc. Nghĩa trang thì gọi là kut.

Có thể phía miền Bắc cũng có tập tục hỏa táng dưới thời Champa, nhưng nhà cầm quyền mới thì cấm, vì vậy họ phải chôn tạm khoảng trên 5 năm để thi hài chỉ còn bộ xương, rồi quy tập vào nghĩa trang, gọi là sang cát, có thể do đọc chệch sang cut.

 

 

 

 

 

 

 

 

 


No comments:

Post a Comment