Sử sách Trung Quốc ghi nhận nước Tây Đồ (西屠) nằm ở phía nam nước Lâm Ấp. Lâm Ấp
thì vốn là một quốc gia độc lập, ở phía nam quận Nhật Nam của nhà Hán, bị Mã Viện
xâm lược vào năm 43, rồi lại dành được độc lập từ khoảng năm 193.
Tên gọi Nhật Nam được giải thích là do ở đó bóng mặt trời đổ
về phía nam nên được đặt thế. Về
sau, người ta coi đó là một cơ sở để khẳng định vị trí Nhận Nam ở phía
miền trung của Việt Nam ngày nay. Tuy
nhiên, sách Thủy Kinh chú sớ,
dẫn lời của Vương Sung, một học giả sống ở thế kỷ 1, khi ông hỏi trực tiếp những
người từ Nhật Nam trở về thì họ trả lời là không phải như vậy hết cả, mà có lẽ chỉ
ở tháng 5 [tức là tháng 6 dương lịch] (1). Theo căn cứ này thì có lẽ Nhật Nam
phải ở khá gần đường chí tuyến bắc, tức là khoảng từ phía nam Quảng Tây Trung
Quốc đến phía miền bắc Việt Nam là phù hợp hơn. Trong các bài viết trước tôi đã
chỉ ra đúng là như thế. Nhật Nam ở miền nam Giao Châu, mà Giao Châu tức là Lĩnh
Nam, vốn ban đầu được đặt tên theo miền núi Ngũ Lĩnh, cách rất xa đất Việt Nam.
Một cơ sở khác để củng cố cho nhận định này, là chi tiết trong Hậu Hán thư, quyển
86, chép về thời điểm nhà Hán vừa thiết lập quận huyện ở Lĩnh Nam: “từ đông sang tây một nghìn dặm, từ nam chí bắc
năm trăm dặm” (2).Mỗi dặm ước chừng 0.5km. Kích thước trên dĩ nhiên chỉ là
ước đoán chứ không thể phản ánh hoàn toàn chính xác, nhưng rõ ràng phạm vi trên
hẳn phải nằm lọt trong lưu vực hệ thống sông Châu Giang chứ không thể kéo dài tới
miền trung Việt Nam.
Nhiều tài liệu xưa, và ngày nay được coi là một nhận thức
chung, là Lâm Ấp đã trở thành huyện Tượng Lâm của quận Nhật Nam, sau khi bị Mã
Viện chinh phục vào thời Hậu Hán. Tuy nhiên sách Tiền Hán thư ghi nhận các quận huyện thời Tây Hán trước đó cho thấy đã có huyện Tượng Lâm, một
trong năm huyện của quận Nhật Nam. Vậy hẳn đã có sự nhầm lẫn.
Một người Trung Quốc đã viết một cuốn sách riêng về Lâm Ấp,
gọi là Lâm Ấp ký. Sách này về sau thất
truyền. Tác giả Lịch Đạo Nguyên, đầu thế kỷ 6, dẫn một đoạn Lâm Ấp ký, đề cập chi tiết sau khi Mã Viện
chiếm Lâm Ấp, như sau: “Năm Kiến Vũ thứ 19 [năm 43] Mã
Viện trồng hai cột đồng ở biên giới phía nam quận Tượng Lâm, ranh giới phía nam
của nhà Hán với nước Tây Đồ” (3). Theo đó thì Lâm Ấp bị biến thành quận Tượng
Lâm chứ không phải là huyện Tượng Lâm. Cũng theo Lịch Đạo Nguyên, dẫn sách “Tấn thư địa đạo ký”, năm Thái Khang thứ
3 thời Tấn [năm 283] nhà Tấn cơ cấu lại quận Nhật Nam, lị sở “cách cửa sông Lô Dung 200 dăm, là lị sở của
huyện Tượng Lâm, Tượng quận thời Tần ngày trước” (4). Thời điểm này Lâm Ấp
đã độc lập, thế nhưng nhà Tấn vẫn còn đất Tượng Lâm, vậy đây cũng là một cơ sở
cho thấy Lâm Ấp không phải là huyện Tượng Lâm. Tôi cho rằng có thể đất Lâm Ấp
mà Mã Viện chiếm được đã bị đặt thành một quận gọi là quận Tượng Lâm, mà về sau
do nhầm lẫn hay cố ý người ta
đã gán thành huyện Tượng Lâm của quận Nhật Nam.
Chi tiết về cột đồng nơi biên giới giữa Lâm Ấp và Tây Đồ được
Lê Quý Đôn đề cập trong sách Vân đài loại
ngữ, quyển 3, điều 52. Ông dẫn hai thuyết. Thứ nhất là thuyết của Đỗ Hựu: “Về phía nam Lâm Ấp, vừa thủy vừa bộ, đi hơn
2000 dặm, có nước Tây Đồ Di là nơi Mã Viện dựng hai đồng trụ để nêu rõ địa giới,
núi Đồng Trụ chu vi 10 dặm, hình như cái
lọng ngả ra, phía tây nhiều dãy núi trùng nhau, phía đông ra ngay biển lớn”.
Thứ hai là thuyết của Tống Bạch: “Mã Viện
đánh Giao Chỉ, đi từ Nhật Nam, đi về phía nam hơn 400 dặm thì đến Lâm Ấp, lại
đi về phía nam hơn 200 dặm có nước Tây Đồ Di. Viện đến đấy đúc và dựng ba cột đồng
ở biên giới Tượng Lâm để phân biệt địa giới với nước Tây Đồ Di. Kể từ Giao Châu
đi đến chỗ đồng trụ là 5.000 dặm”. Ngoài ra, bộ Lương thư của Diêu Tư Liêm,
đầu thế kỷ 7, ghi nhận về Lâm Ấp: “đất ấy
dài rộng độ sáu trăm dặm, thành cách biển một trăm hai mươi dặm, phía bắc tiếp
giáp với quận Cửu Đức. Biên giới phía nam đường thủy bộ đều hơn hai trăm dặm,
có nước Di ở phía tây cũng xưng vương, chính là nơi Mã Viện dựng hai cột đồng để
đánh dấu biên giới nhà Hán vậy”.
Con số 2000 dặm do Đỗ Hựu đưa ra có vẻ không hợp lý, xét cả
về mức độ cần thiết cũng như khả năng hậu cần để có thể tiến xa ngoài kế hoạch
như thế, bởi vì vốn ông ta chỉ đi bình định Giao Chỉ. Ngoài ra, ngày nay người
ta đã chỉ ra được nhiều chi tiết lịch sử giả mạo về khu vực Tượng quận ở phía
nam, mà vốn xuất phát từ Đỗ Hựu. Con số này có lẽ được lấy căn cứ theo biên giới
phía nam của nước Lâm Ấp trước khi bị nhà Tùy xâm lược, vào đầu thế kỷ 7, chứ
không phải Lâm Ấp thời Mã Viện xâm lược, ở thế kỷ 1. Đó là một sự nhập nhèm, có
thể nhằm ngụy tạo ra một lịch sử về sự chiếm hữu của người Trung Quốc ở khu vực
nam Trung bộ Việt Nam vào thời Tần Hán,
lấy danh nghĩa cho việc thu
phục hết phần còn lại của nước Lâm Ấp đương thời. Đỗ Hựu từng làm Tiết độ sứ ở
Lĩnh Nam rồi làm tới chức Tể tướng của nhà Đường.
Vậy có thể con số thực tế là khoảng hơn 200 dặm, tức là hơn 100km tính từ thủ phủ Lâm Ấp đến ranh
giới với nước Tây Đồ. Bây giờ chúng ta thử xác định vị trí thủ phủ này.
Căn cứ thứ nhất, dựa trên những kết quả tôi đã chứng minh rằng
Lâm Ấp thời Mã Viện vốn ở miền bắc Việt Nam (https://hoangcuongviet.wordpress.com/2022/02/02/lan-nay-chung-ta-co-chap-nhan-xet-lai-lich-su-khong/),
vậy thì thủ phủ Lâm Ấp cũng ở trên khu vực đồng bằng sông Hồng. Căn cứ thứ hai,
dựa trên những kết quả khảo cổ về thành Cổ Loa cho thấy đó là một tòa thành cổ
rất lớn. Người ta tìm thấy những viên gạch Hán được dập niên hiệu, được xác định
là các năm 99, 105, 111, sau thời điểm Mã Viện chiếm Lâm Ấp, chứng tỏ đây là
tòa thành quan trọng nên được họ chú tâm gia cường. Rất có thể đây chính là thủ
phủ. Căn cứ thứ ba, là chi tiết trong Lương
thư cho biết thành cách biển 120 dặm, tức là khoảng 60km. Từ Cổ Loa ra tới
cửa sông Hồng ở thời đầu Công nguyên với khoảng cách đó là không sai lệch nhiều
so với một số tính toán địa chất. Từ ba căn cứ này chúng ta có thể xác định Cổ
Loa chính là thành của nước Lâm Ấp thời kỳ đó.
Từ Cổ Loa đi về ranh giới phía nam đường thủy lẫn đường bộ đều
hơn 100km, vậy thì đường ranh giới đó hẳn chính là dãy núi Tam Điệp.
Theo mô tả của Đỗ Hựu: “núi
Đồng Trụ chu vi 10 dặm, hình như cái lọng ngả ra, phía tây nhiều dãy núi trùng
nhau, phía đông ra ngay biển lớn”, thì núi này phải nằm ở cực đông của dãy
Tam Điệp. Chúng ta có thể thấy đó chính là ngọn núi Mai An Tiêm. Tính cả khu vực
chung quanh núi, cao từ 4m trở lên thì đường chu vi khoảng gần 5km, tức là gần
10 dặm. Bên ngoài là các khu vực thấp
hơn, có lẽ được bồi đắp về sau. Truyền thuyết Mai An Tiêm cũng cho biết rằng
nơi này vốn là một hòn đảo. Vậy đây có lẽ chính là núi Đồng Trụ.
Kết hợp với việc
dựa vào đặc thù địa lý để loại trừ các khả năng khác, thì có thể kết luận rằng
khu vực Thanh Hóa, ít nhất là miền đồng bằng, chính là nước Tây Đồ xưa.
Hình ảnh thể hiện ước lượng về phạm vi núi Đồng Trụ.
Phía nam, cách dãy núi Tam Điệp khoảng 20km là khu vực Hậu Lộc,
trung tâm của văn hóa Hoa Lộc thời tiền sử. Ở đây có cửa Lạch Trường, vốn là cửa
chính của sông Mã, là trung tâm của Ái Châu ít nhất cho đến thời nhà Lý. Có thể đây chính là đô thành của
nước Tây Đồ. Nhà khảo cổ học người Thụy Điển O. Janse từng khai quật được ở
vùng này 29 cái mộ Hán, về sau người
ta còn có thêm nhiều cơ sở khác để kết luận rằng nhà Đông Hán đã từng đặt được
chế độ cai trị ở khu vực đồng bằng Thanh Hóa, như vậy lực lượng nhà Hán
chiếm đóng Lâm Ấp đã kế tục Mã Viện mở rộng về phía nam, thôn tính luôn nước
Tây Đồ.
Liệu tên gọi này có liên hệ gì với khái niệm Tây Đô?
Tên gọi của người Hán đối với nhiều quốc gia bên ngoài trong
nhiều trường hợp chỉ là sự phiên âm tên do người bản địa gọi. Trường hợp Tây Đồ
có lẽ cũng thế, bởi vì khái niệm này hiểu theo chữ Hán thì khá vô nghĩa. Ngược
lại, tên gọi Tây Đô thì có ý nghĩa rõ ràng, chỉ một kinh đô ở phía tây.
Từ trước đến nay người ta thường hiểu Tây Đô là trị sở ở
Thanh Hóa, còn Đông Đô là khu vực Hà Nội. Tuy nhiên, dù thành Tây Đô có dịch
chuyển đâu đó dọc đồng bằng ven biển Thanh Hóa thì tương quan phương vị giữa
Đông Đô và Tây Đô vẫn hầu như là chính bắc nam chứ không thể là đông tây được. Ngay
cả trường hợp đặt kinh thành phía bắc ở Hoa Lư, thời Đinh và Tiền Lê, thì cũng
không thể gọi tương quan này là đông tây.
Trong bộ sách Đại Việt
sử ký toàn thư, khái niệm Tây Đô thậm chí còn được đề cập trước khái niệm
Đông Đô. Sách này chép về sự kiện Lê Hoàn đánh dẹp Đinh Điền và Nguyễn Bặc, cuối năm 979: “Bấy giờ Hoàn mới chỉnh đốn binh sĩ, đánh nhau với Điền, Bặc ở Tây Đô”,
kèm theo lời giải thích: “Hoàn người Ái
Châu, mà kinh đô ở Hoa Lư, cho nên sử gọi Ái Châu là Tây Đô”. Thời điểm này
Đinh Tiên Hoàng vừa mới chết, Lê
Hoàn chưa lên làm vua, vậy chưa
thể nào lập Tây Đô được?
Vậy phải chăng tên gọi Tây Đô cũng là do chuyển dịch từ Tây
Đồ mà ra?
Người viết bài
này thử đưa ra một giả thuyết. Sau khi dành lại độc lập, từ cuối thời Đông Hán,
biên giới Lâm Ấp dần được mở
rộng ra, bao gồm cả phạm vi nước Tây Đồ và xuống tới cả phía nam Trung Bộ thì
tên gọi cũ của các nước đã bị xóa dần đi. Kinh thành Lâm Ấp thời kỳ này nằm ở
phía ven biển đông Bắc Bộ, điều này tôi đã chứng minh, qua bài viết đã được dẫn
ở phần trên. Sử sách Trung Quốc ghi nhận nhiều cuộc chiến tranh giữa Lâm Ấp và
nhà cai trị Giao Châu, mà có trường hợp họ đã chiếm đóng và san phẳng cả kinh
thành Lâm Ấp, vì vậy nhà nước Lâm Ấp có thể đã xây dựng thêm một đô thành mang
tính phòng thủ ở khu vực Thanh Hóa, tức là nằm về phía tây nam của kinh đô
chính thức, lúc này tên gọi của thành Tây Đồ đã bị biến ra thành Tây Đô. Ở giai đoạn này chữ Hán đã phổ biến
và hệ thống từ vựng Hán Việt đã hình thành. Rồi khái niệm Tây Đô lại chi phối
các vị vua chúa có nguồn gốc từ Ái Châu để rút cục gọi kinh thành phía bắc là
Đông Đô.
Chú thích:
1.
Thủy kinh
chú sớ, bản dịch của Nguyễn Bá Mão, trang 373
2.
Hậu Hán thư – quyển 86, An Nam truyện, bản dịch của Châu Hải Đường, trang 187
3.
Thủy kinh
chú sớ, sđd, trang 395
4.
Thủy kinh
chú sớ, sđd, trang 366