Search This Blog
Thursday, April 13, 2023
Thử tìm nguồn gốc tên gọi Âu Cơ, bà mẹ của dân tộc Việt Nam
Monday, April 10, 2023
Từ Chàm và từ Hán Việt
Phân tích một số dấu hiệu sử dụng âm Chàm để tạo âm Hán Việt
Qua khá nhiều ví dụ ở bài trước, tôi nhận thấy
có tình trạng kết hợp âm Chàm và âm Hán để tạo ra âm Hán Việt, ở tần số và tính
chất khó có thể nói là ngẫu nhiên. Đến nay thì số lượng tìm thấy đã rất lớn, có
thể củng cố vững chắc nhận định trên. Tôi sẽ công bố trong thời gian gần.
Sau đây xin đưa thêm một số ví dụ, có tính chất
hệ thống.
1.
Từ “Ka”. Từ này rất phổ biến và nghĩa khá rộng,
như là: bởi, do, vì, để…Tức là mở ra một điều gì đó.
Một số từ Hán Việt sau đây có sử dụng các âm k, c,q, kh, tức
là có liên hệ gần về ngữ âm liên hệ đến nghĩa này, theo các cách khác nhau, nói
về cái mở đầu, nói về cái kết thúc, nói về tiến trình:
根 gen/gan – Căn (gốc)
故 gu
- Cố - nghĩa (lý do)
开 kai/hoi - Khai (mở ra, khai mở)
启 qui/kai - Khởi
(bắt đầu)
改 gai/goi Cải
(bỏ cái cũ, bắt đầu cái mới) |
||||||||||||||||||
更 geng/ang Cánh
(càng, hơn, sửa đổi cải biến) |
||||||||||||||||||
跨 kù, kua Khóa (vượt qua, bước qua) |
||||||||||||||||||
快 kuài/faai Khoái (nhanh, sướng, bắt đầu) 挑 tao, tiao Khiêu (dẫn dụ, chọc) |
||||||||||||||||||
举 ju/geo Cử
(cử động) |
||||||||||||||||||
拒 ju/keo Cự (chống cự) |
||||||||||||||||||
究 jiù/gâu Cứu (kết cục) |
||||||||||||||||||
結 jì/git Kết (kết thúc) |
||||||||||||||||||
罄
qìng/hing Khánh (hết, xong |
||||||||||||||||||
去 qú/heoi Khứ (đã qua) |
||||||||||||||||||
近 ji/gan, kan Ký (đã, rồi) |
||||||||||||||||||
過 guo/gwo Qua, quá (xong, vượt) |
||||||||||||||||||
廣 guăng/gong Quảng (mở rộng) |
||||||||||||||||||
帰 gui Quy (trở về) 2.
Từ “hu”, nghĩa là có được, sở hữu Một số từ Hán Việt mượn âm h, có nghĩa liên quan:
3.
Iêu - kêu |
||||||||||||||||||
|
||||||||||||||||||
|
||||||||||||||||||
|
||||||||||||||||||
|
||||||||||||||||||
Xin đưa thêm một dạng ví dụ khác -
Sử thi Chàm, AKAYET DEWA MƯNO, câu
14: Ka tho pataw ni o hu anưk likei - Bởi
số vua đây là không có con trai Xin gán từ Hán Việt, để trong dấu ngoặc, tương ứng nghĩa với
từng từ Chàm: Ka (Căn) tho (số) pataw (bá) ni (thị) o (vô) hu (hữu) anưk likei (tử). -
Pataw awen ưng ka hu pila nan = Vua
ưng vì có cái ngà như này. Ghép từ Hán Việt: Pataw (bá) awen (ưng)
ka (cố = lý do là) hu (hữu = có) pila (nha = ngà) nan(như = như này) Bạn có nhận thấy sự gần gũi về cả
âm và nghĩa không? |
||||||||||||||||||
|
Friday, April 7, 2023
Việt hay Champa?
Việt , là cách người trên đất nay là Việt Nam đặt âm cho các
chữ Hán 越
hay 粵, được người Hán dùng để
chỉ chung nhiều dân tộc phía nam
Trung Quốc. Phát âm theo tiếng Quan Thoại là yuè, theo tiếng Quảng Đông
là jyut. Khái niệm này được các nhà nước
thời kỳ độc lập, trên khu vực tạm gọi là Đông Lào, theo mô hình Trung Hoa, sử dụng
làm tên quốc gia, sau đó mới có tên là dân tộc Việt, người Việt.
Champa (Campā), hay còn gọi là Chăm, Chàm, Chiêm …là tên
gọi bắt nguồn từ một từ tiếng Phạn là Campāpura,
tên của một thành bang thời cổ, nằm bên bờ sông Hằng của Ấn Độ. Khái niệm này được
các nhà nước, cũng trên khu vực Đông Lào, theo mô hình Ấn Độ, sử dụng làm tên
quốc gia, sau đó mới có tên dân tộc Champa, người Champa.
Vậy thì trước khi có các tên gọi đó, sự liên hệ giữa hai dân
tộc là như thế nào?
Một công cụ tương đối dễ hiểu và rất thường được sử dụng để
tìm mối liên hệ giữa các dân tộc, là so sánh ngôn ngữ, bởi ngôn ngữ dù luôn biến
đổi theo thời gian nhưng thường là một tiến trình rất dài và luôn để lại dấu vết
Do khuôn khổ bài viết, bảng so sánh từ vựng chỉ bao gồm mô tả
con người và các hoạt động.
GHI ÂM TIẾNG CHÀM |
TỪ TIẾNG VIỆT TƯƠNG ĐƯƠNG |
akok |
óc, đầu. Xanưng pachah akok = nghĩ nát óc. |
amek |
mẹ |
atak kan/ kanư |
khấn |
athah tung |
thỏa bụng, hài lòng |
atoh ru |
hát ru |
atuk |
tục, lóng |
bai |
tế |
Băng dih/ndih daok |
ăn nằm |
bek |
vẻ, dấu hiệu |
bôh |
thấy, chộ (phương ngữ Bắc Trung Bộ) |
bơk |
bẻ, uốn |
căn |
cân (cái cân, việc cân) |
chabôi |
môi |
chađip |
díp, khép |
chang dău |
y chang nhau, như nhau |
channău |
ngón |
chao chik |
keo kiệt, hà tiện |
chăp |
chấp |
chăt |
thật |
chaua |
chửi bới |
cheh |
chế ra, nặn ra |
chiăk |
cắt |
chiên |
tiền |
chioi |
giỏi |
chiơng |
thành, trưởng thành |
choh |
thọt, què |
chôi |
thôi, đừng |
chok |
khóc lóc |
chơk |
nói dóc |
chroh |
xối, xả |
chuăk |
cợt, giễu |
chuk |
luồn, chui |
chum |
hôn, thơm |
chum |
chụm, góp |
dak |
giơ lên |
dăn |
rặn |
day |
đầy, lắm |
dơik |
hỡi |
đôk |
đòi |
eh |
ẻ, ỉa. Chroh = ỉa chảy, ỉa rót |
eh rôi |
nốt ruồi |
êu |
kêu, gọi |
hăk |
hệt |
hakê |
kệ, kể chi |
hakun |
hun khói |
halăk |
người lạ |
hanoh |
giận, hận |
hao |
hao, tốn |
harăt |
rặt, thuần |
harơh |
ghê, rợn |
hatah |
tỏ, sáng |
hatuc |
tấm tức |
hiêp |
hiếp |
hok |
hóc |
huik |
húp, hớp |
huit |
huýt sáo |
ia khik |
khí, tinh dịch |
iop |
tóp, teo |
ita |
ta, tôi |
kachôi ka |
đợi đã |
kahề |
hề, hài |
kalàik |
lại, tiếp |
kalek |
thọc lét |
kami/ita |
ta, tôi |
kamlo |
câm |
kăn |
khó, căng |
kanhik |
nhợt, tái |
kanik |
chật |
kaơk |
chưng cất |
kapak |
bước đi, đi bộ |
kapơ |
thờ ơ, bơ |
kati |
ty |
kău |
tau, tao |
kăuk |
tộc |
kek |
cắn |
khăm |
hăm |
khăn ao |
khăn áo |
khăt |
hẳn |
khô |
khổ |
khơh |
khéo |
khom |
gù |
kiet |
sít sao, kiết |
kinòng |
nóng, giận |
kiràk |
xê ra |
klon |
trôn |
klu |
dái |
koc |
gốc. Lihik kok mất gốc |
kơh |
gợi |
kok |
bà cố |
kok kalok |
c.ặc, quy đầu |
kuah |
cạo |
lakău |
cầu, xin |
lang kan |
khấn |
leh |
trảy hội |
lek |
lọt, sa, rơi |
liah |
liếm |
likuk |
cuối, hậu |
lok |
lóc, lột |
mbaok/bok |
mặt |
mih |
mà (tr) |
mưhu |
muốn, thèm |
muk |
bà |
mưluk |
lú lẫn |
mưngah |
giả |
mưnưk |
sinh nở |
mưta/mâta |
mắt |
mưxăc |
hỗn, xấc |
neh |
nhi, trẻ nhỏ |
ngut |
ngủ gật |
nha |
nhà |
nhom |
nhóm họp (đg) |
oan |
oan |
ok |
ói |
ong/aung |
ông |
ot |
la ó |
Pabah dalah |
miệng lưỡi |
Pabah mbeng |
miệng ăn. |
pachay |
chàng |
pachoh |
so, so sánh |
pachoh |
chọi |
pachup |
giúp |
padap |
đập, chế ngự |
pađik |
đau, nhức |
pah |
vả, tát |
pak/bak |
bốn |
pakăp |
cặp, sánh |
palặk |
lặp |
panôik |
chuyện |
paplay chiuk |
bán chịu, bán thiếu |
paplay đôik |
bán đắt hàng |
papok |
gói, bó |
pasai |
sai bảo |
pasut |
xúi, xút |
patăm |
tẩy (gần nghĩa tắm) |
pathău |
tâu |
pek |
bẹo, véo |
plơk |
giở |
pôik |
nói |
pôik neh |
nài nỉ |
pôk |
mở |
prai |
rải |
pre |
rè, khàn |
prêu |
réo |
prôik |
ruột |
pui |
vui |
radăm |
đậm, xẫm |
rău |
rầu |
ravơk |
rờ, sờ |
riăk |
ác, hung |
riăk |
rán, thắng (mỡ) |
rineh kateh |
trẻ ranh, trẻ nhỏ |
rôn |
ồn, rộn |
ruh |
giũ, rủ |
rui |
rút, thu hồi |
ruik |
rứt |
sak |
xấu |
siu liu |
ỉu xìu |
sơh |
sướng, khoái |
tachay |
chỉ, trỏ |
Tacho tachek |
cháu chắt |
tadah |
tàn, hư nát |
taha |
già |
tait |
yên ổn |
tak |
tại (vị trí) |
tăk |
thà |
takai |
chân |
talàh |
lưỡi |
taluik |
(con) út |
tăn |
táng, chôn |
tanăk |
nấc, thứ tự |
tangi |
tai |
tangin |
tay |
tanưk |
nấu |
tapô |
hô |
tariêng |
siêng |
tăuk |
tim |
thah |
thỏa |
thăn |
thân (d), phận, thân phận |
that tiăk |
trung thành, thật tình |
thău |
thấu, hay biết, hiểu biết |
thêt |
khao |
thi |
thì, sẽ |
thiam |
thắm, đẹp |
tho |
cầm, thó |
thok |
thọc, giã |
thuuk |
thưa |
tiauk |
tống |
tơ/dơ |
tựa, như. Prong dơ kăuk = rộng như nhau |
truh |
từ bỏ |
trưk |
sực, xực |
tuah |
tìm |
tuc |
lúc |
tuik |
tội (d) |
tung |
bụng |
tung |
túm, níu |
ưng |
muốn, ưng |
xăk |
thể xác |
xêh |
xinh |
Sự tương đồng là rất lớn.
Ngoài ra thì cách tạo từ có nét giống nhau. Ví dụ từ thăn,
tương ứng với từ thân, vừa để chỉ thân xác lại vừa để chỉ thân phận.
Nếu không bị giới hạn các khái niệm Việt hay Champa (Chiêm
Thành) thì chúng ta có thể nói rằng họ từng là một dân tộc, trong khoảng thời
gian rất dài, và người Champa còn lưu giữ rất nhiều từ ngữ cổ của dân tộc.
Ngoài ra, một dấu hiệu khá rõ, là phát âm của người Việt ở khu vực Quảng Nam và
lân cận nằm ở trung gian giữa tiếng Việt hiện đại và tiếng Champa
Như vậy, rất có thể ngôn ngữ Quảng Nam được phát triển từ
ngôn ngữ Champa, cổ hơn ngôn ngữ phía bắc. Ngôn ngữ cổ từ Quảng Nam lan ra phía
bắc chứ không phải do phía bắc đưa vào.
Chúng ta thử xem lại câu chuyện Nam tiến của người Việt.
Hai sự kiện lớn liên quan đến câu chuyện khai phá từ vùng Quảng
Nam trở vào, là cuộc đánh chiếm của Đại Việt vào năm 1471 và sự kiện lập nghiệp
của Nguyễn Hoàng, từ năm 1558.
Theo Đại Việt sử ký
toàn thư, tháng 3 năm 1471 quận Đại Việt hạ kinh thành Chà Bàn, đặt đơn vị
hành chính trên nước Chiêm, sau đó đã cho người Chiêm đầu hàng là Ba Thái làm đồng
tri châu Đại Chiêm, Đa Thủy làm thiêm tri châu. Lại cho Đỗ Tử Quy làm đồng tri
châu tri Đại Chiêm quân dân sự, Lê Ỷ Đà làm tri châu Cổ Lũy tri quân dân, người
Chiêm có ai dám không theo, cho giết rồi tâu sau. Tháng 6, lấy đất Chiêm Thành
làm thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa, đặt ba ty ở Quảng Nam.
Tháng 9 năm 1472 Lê Thánh Tông sai xét họ tên của người
Chiêm, người Man, họ của người Chiêm thì họ mới họ cũ theo đúng quy chế, họ của
người Man thì dồn lại làm một, nếu tên nhiều chữ thì chỉ để lại ba chữ thôi…
Theo Nam triều công
nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm,
một đại thần ở Đàng Trong thời Nam Bắc phân tranh, năm 1558 Nguyễn Hoàng chỉ
mang theo được 1000 quân, đi bằng đường thủy.
Rõ ràng, không có làn sóng di cư nào cả. Dân chúng ngoài bộ
phận chạy theo vua Chiêm về phía nam, còn lại thì thành dân Đại Việt, mang họ
theo quy chế do nhà nước Đại Việt ban hành. Dân phía bắc vào nam thì ngôn ngữ hẳn
sẽ bị hòa tan vào bản địa, chứ không phải thay thế.
Bằng các công cụ lịch sử và địa lý, tôi đã chứng minh được rằng
tồn tại một thể chế từng thống nhất toàn bộ lãnh thổ tiền thân của Đại Việt và
Champa. Đó là nhà nước Lâm Ấp, theo khối văn minh Ấn Độ, từ cuối thế kỷ 2 đến
năm 604. Thực ra thì có thể nói rằng lãnh thổ này còn bao gồm cả phía cực nam của
Quảng Tây và Vân Nam cũng như một phần khá lớn ở trên đất ngày nay thuộc Lào.
Đó là cơ sở giúp giải thích được việc thống nhất ngôn ngữ ở đồng bằng từ miền Bắc
vào miền Trung, như nói ở trên. Ngoài ra còn giúp giải thích được việc hình
thành hệ thống âm Hán Việt, mà tôi đã tìm thấy trên 500 từ chịu ảnh hưởng của
âm Chàm, chỉ trong ít ngày.
Triều đình Lâm Ấp bị nhà Tùy đánh bật khỏi miền đồng bằng từ
Bắc Bộ cho đến bờ bắc sông Cả. Khu vực bị người Hán xâm chiếm và ít nhiều đồng
hóa, sau ba thế kỷ thì dành độc lập, rồi trở thành nhà nước Đại Việt. Thượng du
phía tây và đất phía nam vẫn theo chế độ Lâm Ấp.
Mặc dù cả hai phía đều có sự thay đổi triều đại và cả quốc
hiệu, nhưng về cơ bản thì một nhà nước theo ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa và
một nhà nước vẫn giữ ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ.
Cuộc chiến mở rộng của phía Đại Việt bắt đầu từ đầu giai đoạn
độc lập. Từ triều đại Đinh, Lê đến đầu triều Lý, năm 1011, Đại Việt mới chinh
phục về phía tây đến được đất Cử Long, nay thuộc vùng Cẩm Thủy, cách bờ biển ở
Thanh Hóa khoảng 60km. Theo thần phả đền
Quả Sơn, hoàng tử Lý Nhật Quang hi sinh trong trận chiến với Chiêm Thành, bị
chém ngang cổ nhưng đầu không lìa, đến núi Quả thì ngựa quỵ xuống, năm 1057. Câu chuyện ít nhiều có tính chất huyền thoại, nhưng đền
Quả Sơn thì vẫn còn đó, cách bờ biển Nghệ An chưa tới 40km. Đại Việt sử ký toàn thư còn cho biết năm
989 một viên quản giáp của Lê Hoàn là Dương Tiến Lộc đem hai châu Hoan Ái theo
Chiêm Thành, vua đuổi bắt được Tiến Lộc, giết người hai châu ấy không biết bao
nhiêu mà kể. Có thể nói rằng đất Thanh Nghệ là biên giới, là chiến trường trong
nhiều thế kỷ.
Sử của chúng ta chịu sự chi phối bởi ý thức hệ của các triều
đình phong kiến Đại Việt, chép về Champa không có sự khách quan, do đó mà xóa
đi rất nhiều sự thực về lịch sử và văn hóa dân tộc.
Viết thêm:
Tôi sẽ vận dụng kết quả đạt được để giải thích một số vấn đề
nhỏ, trong bài viết này.
1.
Tại sao chế độ Champa bị thất bại trước Đại Việt
và bị phần lớn người dân của mình lãng quên.
Một nguyên nhân giải thích cho sự thất bại, là nhà nước
Champa vận hành theo tính chất phân quyền, liên minh, lỏng lẻo hơn mô hình tập
quyền của Đại Việt, nên không phù hợp trong việc huy động lực lượng trong các
cuộc tranh chấp.
Một nguyên nhân giải thích việc họ bị lãng quên nhanh chóng,
là do xã hội Champa có tính chất phân hóa đẳng cấp rất rõ rệt, theo kiểu Ấn Độ.
Thường dân không có sự gắn kết với tầng lớp cai trị, như là thuộc về một thế giới
khác, nên khi chế độ Champa bị đánh bật đi thì dễ dàng bị lãng quên, nhất là
trong hoàn cảnh các triều đình Đại Việt rất biết cách vận dụng tư tưởng đồng
hóa học được từ người Trung Hoa.
2.
Tại sao dân chúng từ Quảng Nam trở vào không gọi
người con đầu là cả mà lại gọi là hai.
Trong tín ngưỡng Champa có các danh hiệu tôn quý là Kadhar hay po Acar. Người phía nam vốn theo tín ngưỡng Champa trong khoảng thời
gian rất lâu dài, họ không gọi thằng Cả, con Cả là để tránh tên các vị này.
3.
Tại sao ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Nghệ lại có tục lệ bốc mả và họ gọi việc này
là ‘sang cát’
Người Champa theo tín ngưỡng Bà la môn có tập tục đem phần
xương trán người chết sau khi đã hỏa táng vào nghĩa trang của gia tộc. Nghĩa
trang thì gọi là kut.
Có thể phía miền Bắc cũng có tập tục hỏa táng dưới thời
Champa, nhưng nhà cầm quyền mới thì cấm, vì vậy họ phải
chôn tạm khoảng trên 5 năm để thi hài chỉ còn bộ xương, rồi quy tập vào nghĩa
trang, gọi là sang cát, có thể do đọc chệch sang cut.