Search This Blog

Thursday, April 13, 2023

Thử tìm nguồn gốc tên gọi Âu Cơ, bà mẹ của dân tộc Việt Nam

 

Thử tìm nguồn gốc tên gọi Âu Cơ, bà mẹ của dân tộc Việt Nam
Có các cách hiểu khác nhau về khái niệm dân tộc. Dựa trên các đặc điểm về văn hóa, ngôn ngữ, lãnh thổ…, hoặc dựa trên cơ sở về nhóm tổ tiên, nay được gắn với khái niệm gen di truyền.
Với những dân tộc mà tên gọi gắn liền với một quốc gia, hiện tại hoặc trong quá khứ, tồn tại trong một khoảng thời gian dài, thì sẽ hợp lý hơn nếu được hiểu theo cách thứ nhất. Bởi vì trong quá trình cai trị họ đã hòa nhập, đồng hóa hoặc bị đồng hóa bởi các dân tộc khác trên lãnh thổ. Đó là trường hợp của một số dân tộc như Việt, Hán, Champa…
Tuy nhiên, xuất phát từ nhu cầu thống nhất cao trong quốc gia, các nhà nước thường tìm cách hướng dân tộc theo cách hiểu thứ hai, đó là tạo ra một câu chuyện về nguồn gốc tổ tiên chung của cả cộng đồng. Câu chuyện bà mẹ Âu Cơ là một ví dụ.
Vậy câu chuyện này có từ khi nào, và tại sao bà lại được đặt tên là Âu Cơ, mà không phải là cái tên nào khác?
Về lai lịch và bối cảnh. Bà Âu Cơ được chép là hậu duệ của Thần Nông ở phương Bắc, lấy Lạc Long Quân, cháu của vua hồ Động Đình, sinh ra 100 người con. 100 người con đó nửa theo mẹ về núi, nửa theo cha về phương nam (hoặc xuống biển).
Mặc dù diễn biến hoàn toàn xảy ra ở địa bàn nay là Trung Quốc, mà vị trí hồ Động Đình cũng cách đất Việt Nam rất xa, thế nhưng cho đến nay người ta không tìm thấy trong các truyền thuyết ở đó cái tên Âu Cơ cũng như chuyện 100 người con. Có thể tin rằng câu chuyện được tạo dựng bởi con người trên đất Việt Nam, không hẳn có yếu tố phương bắc.
Dựa trên những phát hiện tôi đã công bố trong thời gian gần đây, từng có một quốc gia do các vị vua Champa cai quản, mà sử Trung Quốc gọi là nước Lâm Ấp, địa bàn bao gồm cả miền Bắc và miền Trung Việt Nam ngày nay. Họ bị đánh bật khỏi đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ vào năm 605 bởi quân nhà Tùy của Trung Quốc. Quân Tùy phá hủy kinh thành và phát hiện ra được 18 bài vị thần chủ trong quốc miếu, được giải thích là đại diện cho 18 đời vua. Tôi đã đưa ra một số chứng cứ nữa để cho rằng đây là nguyên mẫu của câu chuyện 18 đời vua Hùng, và tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một bài viết đầy đủ hơn. Trong bài viết này tôi giả định rằng để cai trị một đất nước rộng lớn và theo mô hình phần tán quyền lực như như nhà nước kiểu Champa, người ta đã tạo ra câu chuyện bà mẹ chung của dân tộc. Việc liên tưởng với vua Hùng cũng là một sự củng cố cho hướng tìm hiểu này.
Vậy thì chúng ta hãy thử tìm sự liên hệ giữa từ “Âu Cơ” với từ ngữ Champa mà hiện nay người Cham đang lưu giữ.
Để chỉ người mẹ, họ có hai từ, được biểu âm là “ina” hoặc “amaik”.
Từ thứ nhất không có dấu hiệu liên quan về ngữ âm, nhưng từ thứ hai thì có. Âm “k” ở cuối từ “amaik” gần gũi với từ “Cơ”.
Hãy thử tách “amaik” thành các âm rời am-ai-k. Âm tiết đầu thực tế được phát âm rất nhẹ. Chúng ta thử tìm sự liên hệ giữa âm “ai” và âm “âu” trong tên gọi Âu Cơ. Tức là thử tìm mối liên hệ giữa âm “I” và “u/ư” trong tiếng Việt.
Từ bắc vào nam các địa phương sử dụng hai âm này khá lẫn lộn. Ví dụ: Hữu/hĩu; tửu/tỉu; (con) nít/(con) nức; thủy/thỉ; nứt/nít (ở phía Nghệ An thì nói là nứt, phía Hà Tĩnh nói là nít)…
Tôi cũng đã chỉ ra rằng người Chàm, ở trên đất phía nam, còn lưu giữ những từ cổ, gốc của rất nhiều từ tiếng Việt hiện nay.
Để chỉ “Bụt”, họ có từ được ký âm là “bhik”, mà phụ âm “h” là âm câm. Tức là từ “bhik” có thể biến thành Bục (ở miền nam) và Bụt (ở miền Bắc).
Người Chàm có từ “khik” đồng nghĩa với “giữ” trong tiếng Việt ngày nay. Chúng ta cũng có từ láy “khư khư” để chỉ việc giữ chặt, mặc dù từ đơn “khư” thì ngày nay không có nghĩa nhưng hẳn ngày xưa phải có nghĩa, và có thể có sự chuyển hóa khik – khư.
Vậy âm “I” hay “ai” trong từ amaik cũng có thể chuyển thành âm “u” khi ra phía Bắc. Rồi sau biến đổi thành ra “au-k”, và nay là “u”.
Một dấu hiệu củng cố cho hướng suy luận này là âm Hán Việt :mẫu, của chữ 母 (âm Quan thoại là mú, âm Quảng Đông là mou). Trong bài viết trước tôi đã chỉ ra tình trạng kết hợp âm Hán và âm Chàm để tạo ra âm Hán Việt, có thể trường hợp này đúng là phía bắc đã chuyển âm "ai" thành "au".
Tức là từ “Âu Cơ” rất có thể vốn là “au-k”, mà gốc là amaik, chỉ người mẹ nói chung. Amaik → am-au-k → au-k → Âu Cơ
Dân tộc ta đến nay vẫn còn lệ dùng danh từ chung để chỉ một nhân vật rất đặc biệt. Trong văn viết ngày nay người ta biểu thị bằng cách để cái đầu tiên ở hình thức chữ hoa.
Chúng ta có từ “nước” để chỉ xứ sở, quốc gia. Trong ngôn ngữ Chàm có từ “nưkăn” cùng khái niệm. Từ này được đặt trọng âm ở âm tiết thứ nhất, phát âm gần với từ “nước” của tiếng Việt hiện đại, đặc biết là phương ngữ phía nam. Với chứng cớ là các vua Champa từng cai quản cả cõi về sau là Đại Việt thì rất có thể từ “nước” chính là biến âm của “nưkăn”.
Nhà nước Lâm Ấp hay Champa tồn tại theo mô hình tù trưởng. Huyền thoại về các người con chia ra ở khắp nơi có lẽ còn liên quan đến các dòng tù trưởng ở miền núi, người Mường, người Thái…
Trong ngôn ngữ của người Mường có một số điểm khá giống với người ở Đàng Trong, đất thuộc về Champa rất lâu dài. Ví dụ họ phát âm chệch âm “tr” thành “tl”, họ nói tlời và tlăng để chỉ trời và trăng, mà người ở Bình Định phát âm cũng gần như thế. Người Mường nói “nả”, người Bình Định nói “nẩu” đều chỉ về “nó” hay “người ta”.
Có lẽ huyền thoại Âu Cơ đã được tạo dựng và từng tồn tại trong dân tộc như thế. Sau đó các nhóm quý tộc cai trị từ phía bắc di cư xuống, hoặc do chính sách đồng hóa của nhà Đường khiến họ tin là thế, lại biến đổi câu chuyện này, để gắn với vùng đất Lĩnh Nam của người Lạc Việt, nay là vùng Lưỡng Quảng. Mục đích cũng là xây dựng một tổ tiên chung, nhưng gốc từ phía bắc. Điều này có thể hợp lý ở một thời điểm nào đó nhưng lại bất hợp lý ở thời điểm khác.
Tất cả cảm xúc:
Anh Hùng Bụng Bự, Nguyen Van Cu và 42 người khác

No comments:

Post a Comment