Bài viết này bàn về một số điểm liên quan đến chữ Hán và từ Hán Việt.
Trước hết xin đề cập về các khái niệm Từ và Tự, được định nghĩa trong một số sách vở.
Từ, là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa hoàn chỉnh và cấu tạo ổn định, dùng để đặt câu.
Tự là âm Hán Việt của chữ Hán 字, chỉ chữ viết. Âm Hán Quan Thoại/Quảng Đông của chữ này là zì/zi. Với chữ Hán thì mỗi Tự thường biểu diễn một Từ.
Như yậy, Từ là cái có trước, xuất hiện từ khi con người có lời ăn tiếng nói, còn Tự hay Chữ là cái có sau.
Chữ Hán là dạng chữ tượng hình, không có tính biểu âm, do đó mỗi chữ có thể có nhiều cách phát âm khác hẳn nhau, tùy theo khu vực, mặc dù cùng biểu đạt một nội dung. Nói cách khác là Tự hay Chữ thì chung mà Từ thì không nhất thiết chung. Ví dụ chữ 車, chỉ cái xe, âm Quan Thoại là chē hoặc jū , âm Quảng Đông là ce hoặc geoi, âm Hán Việt là xa.
Nhiều ý kiến cho rằng loại âm mà được gọi là Hán Việt là một thứ âm Hán cổ, du nhập vào Việt Nam, nay đã không còn được dùng ở Trung Quốc nữa.
Cách lập luận này có vấn đề ở chỗ là sẽ phải công nhận rằng ngôn ngữ Trung Quốc hiện nay đã bỏ mất rất nhiều âm cổ.
Để minh họa, tôi xin trích một ý kiến như sau: “Một ngôn ngữ phân biệt bằng âm thanh, hình thái, và ý nghĩa. Về âm, Việt Nho gần giống nhưng phong phú hơn Quan-thoại nhiều. Âm Bắc-kinh chỉ có 400 (theo hệ thống phiên âm Wade−Giles), trong khi Việt Nho có cả hàng ngàn. Việt Nho trung thực và bảo tồn được chữ Nho với âm thái cổ trong khi giọng Bắc-kinh mất những ngữ vị đầu và cuối như B−, D−, G−, R−, TR−, V−, và −CH, −K, −M, −P, −T (Y.R. Chao mục “Chinese Language” trong Encyclopedia Britannica, 1965). Về thanh, Việt Nho hơn hẳn tứ thanh của Quan thoại vì có tới 8 thanh”. (Bài: Khảo cứu ngắn về chữ viết Việt. Tác giả: Đào Mông Nam & Nguyễn Tiến Văn)
Chúng ta đều biết rằng dân tộc Trung Hoa là một dân tộc lớn, xét trên cả quy mô dân số cũng như bề dày văn hóa. Họ đồng hóa luôn cả những lực lượng ngoại lai đến đô hộ. Vì vậy có thể khẳng định là không có yếu tố nào có thể làm cho ngôn ngữ của họ biến dạng đến mức như vậy được.
Tức là phải xem xét lại quan niệm xếp tập hợp từ Hán Việt vào tập hợp con của ngôn ngữ Trung Hoa, dù là Trung Hoa cổ.
Trường hợp từ Xa, biểu thị âm của chữ 車 (zì/zi), không thể mặc nhiên coi đó là một từ gốc Hán, rồi người Việt đọc trệch dần thành Xe, như cách giải thích rất phổ biến cho đến ngày nay.
Chúng ta thử tìm hiểu nguồn từ Xa (xe), theo hướng khác.
Có lẽ khi muốn phổ chữ 車 và âm Xa thì hẳn người ta sẽ kèm theo đó hình minh họa của một cái xe ngựa, vì ngày xưa ngựa là hình ảnh liên quan gần nhất đến cái xe.
Tên con ngựa, theo âm Khmer là seh (chữ là សេះ), theo âm Chàm là asaih. Có thể thấy rằng hai âm này khá gần nhau, tức là xuất phát từ một gốc chung khá gần. Mà âm Khmer và âm Chàm cũng có mối liên hệ rất gần với ngôn ngữ Việt ngày nay. Một điểm nữa là trong ngôn ngữ của dân vùng Khu 5 thì các từ sa, xa, se, xe được phát âm khá gần nhau và gần với âm của Khmer và Chàm, tức là họ nói các từ này theo âm cổ hơn so với âm Viêt phổ thông ngày nay. Tóm lại, chúng ta có cơ sở để cho rằng các từ Xa và Xe vốn có xuất phát là để chỉ con ngựa, rồi qua quá trình biến đổi tiếng Việt đã phân hóa và kết hợp từ mà thành các âm khác nhau và chỉ cái xe ngựa, rồi thành các loại xe nói chung.
Xin nói rõ thêm về nhận định trên, tôi đã kiếm chứng được rất nhiều trường hợp có liên hệ rõ ràng giữa âm Việt và Chàm, cũng như giữa âm Hán Việt và âm Chàm, chứ không phải âm Hán, khi chỉ cùng khái niệm, tức là có chung chữ Hán. Bảng kết quả sẽ được công bố sau. Bạn đọc có thể tạm xem bài viết:
https://hoangcuongviet.wordpress.com/.../moi-lien-he.../...
Xin nêu thêm ở đây một vài trường hợp.
Trong tiếng Chàm, tức là một thứ tiếng trên dải đất chữ S mà người Chàm đang lưu giữ, thì có các từ là hachan – nghĩa là mưa, và hakoh/hatua – nghĩa là khô, cạn. Tức là các âm này có liên quan đến khái niệm nước. Tôi tra cứu thêm thì thấy trên Wikipedia có các thông tin như sau:
• Sông Hà Ra (Thạnh Mỹ), phụ lưu của Đắk Mi hay sông Vu Gia, chảy ở huyện Nam Giang tỉnh Quảng Nam.
• Sông Hà Ra (Nha Trang) tỉnh Khánh Hòa
• Cửa Hà Ra, cửa sông ở xã Mỹ Đức, Phù Mỹ tỉnh Bình Định.
Ngoài ra, sông Côn, một con sông lớn ở Bình Định cũng có đoạn được gọi là sông Hà Giao hay Hà Rêu.
Một bạn cho biết ở Quảng Bình cũng có sông (chi nhánh của sông Nhật Lệ) mà tên các địa danh từ đầu đến cuối đều mang tên Hà.
Chúng ta cũng có thể thấy sự liên hệ gần về âm và nghĩa giữa ngôn ngữ Chàm và Việt như sau: hachan (mưa) – chan (chan nước); hakoh (khô) – khô (khô cạn); hatua (khô, cạn) – tủa (tủa – một từ dân gian được sử dụng để tạo ra từ kết tủa, khái niệm chỉ phản ứng hóa học mà vật chất chuyển từ trạng thái lỏng sang trạng thái rắn)
Bây giờ chúng ta thử xét đến một số từ Hán Việt có nghĩa liên quan đến nước, tức là liên quan đến hà, hachan, hakoh, hatua
- Can, Cán (khô, cạn kiệt). Chữ và âm Hán là 干 gan/gon
- Hà (sông). 渴 hé/ho
- Tuyết (tuyết). 雪 xue/syut
Có thể thấy rằng ở trường hợp thứ nhất thì âm C là bản địa chứ hoàn toàn không phải âm Hán. Tương tự là âm À ở trường hợp thứ hai và âm T ở trường hợp thứ ba.
Một ví dụ nữa là từ hatah (nghĩa là tỏ, tinh mắt), trọng âm ở âm tiết thứ hai. Thực tế thì người Khu 5 phát âm chỉ khái niệm này khá giống âm Chàm, họ nói gần với Tah hơn là Tỏ.
Chúng ta thử xét một số từ Hán Việt liên quan:
- Tinh, Tình (tròng mắt). 睛 jing
- Tinh (sáng sủa). 晶 jing
- Tường (rõ). 詳 xiáng/coeng
- Tiêu (đêm, nhỏ bé). 宵 xiao/siu
- Tiêu (mốc, dấu hiệu). 梢 shāo/saau
Các chữ mà khi phát âm có phụ âm đầu rất khác biệt trong ngôn ngữ Trung Hoa đã được chuyển sang âm Việt đều có âm T ở đầu, giống với âm T trong hatah.
Trường hợp từ pateh (nghĩa là lụa). Chúng ta thử xem xét một số từ Hán Việt liên quan:
- Tác (dây tơ). 索 suo/saak - Tàm (con tằm). 蚕 cán, tiăn/căm
- Ty (sợi tơ). 丝 si/si
- Tảo (ươm tơ). 繅 sao/sou
- Tang (cây dâu). 桑 sāng/song
- Tiêu (lụa dệt bằng tơ sống). 綃 shāo/siu
- Tuần (dây tơ tròn nhỏ). 紃 xún /ceon
- Tệ (vải lụa). 币 bì/bai
Trường hợp từ tian (nghĩa là tâm, tấm lòng)
- Tâm (trái tim, tình cảm). 心 xin, sam
- Tình (tình cảm). 情 qíng/cing
- Tư (thương nhớ). 思 sai/si
- Ta (cảm thương, thương xót). 嗟 jiē/ze
- Tuất (thương xót, thương hại). 恤 xù/seot
Qua trình bày trên có thể nói rằng có sự mượn âm Hán để tạo ra các âm Hán Việt nhưng không phải tất cả đều như vậy. Tức là đó không phải là nguyên tắc bắt buộc, và không thể gọi là bắt chước. Do đó cách gọi hệ thống từ mà chúng ta gán với các chữ Hán là từ Hán Việt là không hẳn chính xác. Việc gọi đó là từ gốc Hán lại càng sai.
Ở khía cạnh khác, chúng ta có thể thấy được ảnh hưởng rõ ràng của âm bản địa cổ, mà người Chàm đang lưu giữ, lên sự hình thành âm Hán Việt là rõ ràng. Có thể coi đó là là yếu tố chủ đạo chi phối việc đặt âm Hán Việt. Sở dĩ người ta cứ gán âm Hán Việt vào gốc Hán, ngoài yếu tố ngộ nhận lịch sử thì vì chúng có liên hệ không ít về phương diện phát âm. Xin thử nêu ra một số lý do. Thứ nhất là chúng cùng có tính chất đơn âm tiết. Thứ hai là nhiều từ phát âm giống nhau do khái niệm đó vốn chỉ có ở Trung Quốc nên người bản địa phải vay mượn cả chữ và âm. Thứ ba là người ta đã có ý thức tạo ra sự kết hợp âm bản địa và âm Hán để tạo ra âm Hán Việt, mà mục đích là tạo ra sự liên tưởng để cho người học dễ nhớ, đồng thời đó cũng là một quy tắc để tạo từ.
Nhận thức này không chỉ giúp chúng ta xét lại về ngôn ngữ dân tộc mà còn giúp chúng ta có cơ sở để khám phá về lịch sử dân tộc.
No comments:
Post a Comment