1. Cho đến nay khái niệm Đàng Trong vẫn được hiểu là tên gọi vùng lãnh thổ do các Chúa Nguyễn cát cứ, từ năm 1600.
Xin bàn về nhận thức đã mặc định này.
Thứ nhất, là với chính quyền Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài. Họ khó có thể chấp nhận một khái niệm Đàng Trong – Đàng Ngoài, mang hàm ý coi chúa Nguyễn là kẻ chống đối ngang hàng.
Thứ hai, là về phía các chúa Nguyễn. Quê cha đất tổ của họ vẫn ở phía bắc, mặt khác các chúa Nguyễn vẫn nhận ở bên dưới nhà Lê, vậy thì không có lý do nào lại tự coi là Đàng Trong, mà chữ là 塘中 với nghĩa hiển nhiên chỉ trung tâm, trong sự đối lập với Đàng Ngoài, mang nghĩa là ngoại vi.
Tức là chúng ta cần phải tìm một lời giải thích cho sự hình thành cặp tên gọi Đàng Trong – Đàng Ngoài, mà hẳn phải có sẵn từ trước thời đại của các chúa Trịnh chúa Nguyễn, được hình thành trong một mối tương quan khác về tính chất.
Manh mối nào để tìm kiếm?
Thời gian gần đây tôi đã có những bài viết khám phá tiến trình lịch sử trên đất Việt Nam thời cổ. Theo đó thì có một triều đại xuất phát từ miền trong và từng cai quản cả miền ngoài. Triều đại này được sử Trung Quốc chép là 林邑 - Lin-yi, âm Việt là Lâm Ấp.
Tên 林邑 vốn là của quốc gia ở phía miền Bắc giai đoạn trước.
Cụ thể là đã có một nước Lâm Ấp tồn tại trên miền Bắc Bộ Việt Nam. Sau khi Mã Viện dẹp yên miền Lĩnh Nam, tức là Lưỡng Quảng, đã xâm chiếm nước Lâm Ấp vào năm 43. Khi nhà Hán bắt đầu sụp đổ thì người Lâm Ấp lấy lại độc lập, năm 193.
Một triều đình theo văn hóa Champa đã cai quản Lâm Ấp. Quốc gia Lâm Ấp thời kỳ này khá mạnh, từng nhiều lần tranh chấp vùng Lĩnh Nam, tức là phía Lưỡng Quảng, với các triều đình Trung Quốc trong thời kỳ Nam Bắc triều. Phía nam Lâm Ấp tiếp giáp với một đồng minh là nước Phù Nam. Vùng đất từ Đèo Cả trở về phía nam vốn là đất Phù Nam, rồi nhập vào nước hậu Lâm Ấp là Chiêm Thành ở thời điểm nào đó sau khi đế chế Phù Nam bị người Chân Lạp tiêu diệt vào thế kỷ 6.
Đến năm 605 nhà Tùy đánh Lâm Ấp. Khu vực bị xâm chiếm là miền núi phía đông bắc và miền đồng bằng ven biển kéo dài đến bờ bắc sông Cả.
Do triều đại Lâm Ấp này xuất phát từ phía nam, nên đã coi phía nam là trung tâm, tức là bên trong, phía bắc là miền ngoài. Tên gọi Đàng Trong và Đàng Ngoài hẳn phải xuất phát từ thời kỳ này.
Có thể nói thêm rằng cuộc chiến giữa Đại Việt và Chiêm Thành, quốc gia hậu Lâm Ấp, là một cuộc giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong. Cả trên phương diện tính chất mà lẫn trên phương diện danh nghĩa.
2. Triều đại Lâm Ấp và hệ thống từ Hán Việt
Từ Hán Việt, hay cũng có thể gọi là âm Hán Việt, là một hệ thống cách đọc các chữ Hán ở trên địa bàn nay là Việt Nam, phần lớn không theo cách đọc của người Hán.
Ngoài ra còn có thể một hệ thống chữ, chế từ chữ Hán, để ghi những khái niệm mà không thể biểu đạt được bằng vốn chữ Hán có sẵn. Người ta gọi đó là chữ Nôm.
Cho đến nay thì không ai đưa ra được chứng cứ là hệ thống từ Hán Việt và các chữ Nôm được khởi tạo từ lúc nào. Dường như bước vào thời mà người ta coi là thoát khỏi Bắc thuộc thì người Việt đã có sẵn để dùng vậy.
Âm NÔM cũng có nghĩa là NAM, theo phát âm của nhiều khu vực phía trong, bao gồm cả vùng Quảng Nam, trung tâm của Lâm Ấp. Mặt khác, tôi đã chỉ ra rất nhiều sự giống nhau giữa âm Champa, mà người Cham hiện nay còn lưu trữ, với âm Hán Việt khi chỉ cùng một khái niệm.
Có một tập hợp khá nhiều âm đọc chữ Hán khác nhau giữa hai miền Nam Bắc:
- hạp - hợp
- chánh - chính
- kiểng - cảnh
- san - sơn
- thới - thái
- bửu - bảo
- bổn - bản
- nhựt - nhật
- sanh - sinh
- tánh - tính
- lãnh - lĩnh
- thỉ - thủy
- huỳnh - hoàng
- phước - phúc
- cang - cương
…
Cánh giải thích phổ biến hiện nay rằng đó là do người dân phía nam kiêng các tên húy của nhà Nguyễn.
Theo cách này, người ta chỉ nêu ra được một số ít trường hợp. Thí dụ gọi là Huỳnh để tránh tên của Nguyễn Hoàng, gọi là Phước để tránh tên lót của họ Nguyễn Phúc…
Thực tế thì việc kỵ húy chủ yếu chỉ áp dụng trong văn viết. Trong lời nói hàng ngày, nếu không muốn dân chúng nhắc đến từ đó thì người ta chỉ có thể hạn chế bằng cách đổi chữ đi, chứ khó mà bắt dân chúng đồng loạt nói trệch đọc trệch được. Ví dụ nhà Trần bắt đổi từ chữ chỉ họ Lý là 李 ra chữ Nguyễn là 阮 khi muốn xóa họ Lý đi. Ngay ở phía bắc, nơi trải qua một thời gian chịu ảnh hưởng Nho giáo lâu hơn, thì cũng không phổ biến hiện tượng các phiên bản phái sinh do sự kỵ húy.
Nếu cho rằng người di cư từ phía bắc vào rồi tự phát âm khác đi như vậy thì cũng không có cơ sở.
Tức là những âm đọc chữ Hán đặc thù của phía nam hẳn đã tồn tại từ trước thời chúa Nguyễn.
Vậy thì có thể cho rằng chính triều đại Lâm Ấp này đã tiếp thu chữ Hán của nền văn minh Trung Quốc, và đặt âm cho chúng dựa trên âm bản địa.
Các âm Hán Việt ở phía nam thậm chí còn cổ hơn âm ở phía bắc. Nếu để ý bảng trên thì chúng ta có thể thấy rằng các từ phía Đàng Trong được phát âm dễ hơn, ít phải sử dụng việc uốn môi uốn lưỡi hơn, thì có thể giải thích rằng cách phát âm ở Đàng Ngoài là kết quả sự cầu kỳ dần theo thời gian, dưới ảnh hưởng lâu dài của các ngôn ngữ đơn âm tiết của các nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và Hán ở phía bắc.
Champa là một chế độ chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Tuy nhiên với sự vươn dần ảnh hưởng của Trung Quốc xuống phía nam thì việc nhà nước chủ trương tiếp thu cả chữ Hán để kết nối làm ăn và học hỏi từ nền văn minh lớn này chẳng có gì lạ.
Bạn đọc có thể xem một số bài viết trước để hiểu rõ hơn;
- https://hoangcuongviet.wordpress.com/.../lan-nay.../...
- https://hoangcuongviet.wordpress.com/.../thu-xac-dinh-vi.../
- https://hoangcuongviet.wordpress.com/.../lam-ap-hoan.../...
- https://hoangcuongviet.wordpress.com/.../nhung-nhan.../...
- https://hoangcuongviet.wordpress.com/.../moi-lien-he.../...