Trong những thập niên gần đây, trên địa bàn Nam Bộ đã có nhiều phát hiện khảo học quan trọng có thể làm đảo lộn các quan niệm truyền thống về lịch sử toàn khu vực ở thời cổ đại. Tuy nhiên mức độ phổ biến những phát hiện mới này hiện nay vẫn còn khá hẹp.
Trước hết, xin được minh họa cho nhận định trên qua một số thông tin được rút tỉa từ công trình: Khảo cổ học Bà Rịa – Vũng Tàu, do các chuyên gia của Trung tâm nghiên cứu khảo cổ, thuộc Viện phát triển bền vững vùng Nam Bộ thực hiện.
Bìa 1 tác phẩm: Khảo cổ học Bà Rịa – Vũng Tàu. Tác giả: Bùi Chí Hoàng, Phạm Chí Thân, Nguyễn Khánh Trung Kiên. Năm xuất bản: 2012
- Di tích Bưng Bạc, nay thuộc Thành phố Bà Rịa: Từ kết quả nghiên cứu di tích và di vật cùng với tham khảo kết quả phân tích niên đại C14, các nhà khảo cổ học trực tiếp khai quật di tích này cho rằng, di tích Bưng Bạc có niên đại khoảng 2500-2400 năm cách ngày nay [tr32]
- Địa điểm Hồ Sen trên đảo Côn Lôn: Trên bề mặt xuất lộ các mảnh gốm cổ có chất liệu khác giống với đồ gốm tại di tích Hàng Dương, có xương màu hồng pha cát to, lớp áo màu đỏ thổ hoàng. Niên đại ước định khoảng 4000 – 3500 năm cách ngày nay. [tr35]
- Di tích Bưng Thơm (thuộc ấp A, xã Long Tân, huyện Long Điền): Theo kết quả khái quật lần 3, năn 1997: Phát hiện nhiều cọc gỗ chôn thẳng hàng. Ngoài ra còn có các hiện vật bằng đá, kim loại, gỗ và đồ gốm. Có dầu vết về loại nhà sàn thấp. Từ kết quả C14, các nhà khảo cổ học khẳng định di tích Bưng Thơm thuộc sơ kỳ thời đại đồ sắt tồn tại trong khoảng thế kỷ V-IV trước Công nguyên. [tr37]
- Địa điểm Gò Giồng Tranh, khu vực ngập mặn trên địa bàn huyện Tân Thành: Phát hiện nhiều mảnh gốm tiền sử, 02 rìu tứ giác, 02 rìu vài và 03 hòn nghiền. Niên đại ước định khoảng 3000 năm cách nay. [tr38]
- Địa điểm Gò Ông Kiểng, khu vực ngập mặn trên địa bàn huyện Tân Thành: Phát hiện nhiều hiện vật. Cụm gò này cũng được cho là có niên đại khoảng 3000 năm cách nay. [tr39]
- Nhóm địa điểm Gò Cây Me, thuộc xã Phước Hòa, huyện Tân Thành: Khai quật năm 2004 cho thấy một tầng văn hóa của di tích nằm sâu từ 75cm đến 180cm, cấu tạo bởi nhiều lớp đất màu sắc khác nhau, trong đó phát hiện nhiều công cụ bắng đá (180 tiêu bản), xương (26 tiêu bản), đồ gốm (22 tiêu bản) và 13 vạn mảnh gốm của các loại hình đồ đựng. Gò Cây Me là một di tích cư trú của cư dân cổ trong môi trương sinh thái ngập mặn, ngoài ra đây còn là nơi sản xuất gốm (tìm thấy hiện vật lỗi kỹ thuật cùng vết tích than tro cháy). Niên đại ước định khoảng trên dưới 3000 năm cách ngày nay, di tích này có cùng tính chất và nội dung văn hóa với nhóm di tích đã biết trên địa bàn tỉnh. [tr53]
- Trên khu vực xã đảo Long Sơn, năm 2002 đã phát hiện một số di tích mới: Giồng Lớn, Bãi Cá Sóng, Giồng Ông Trượng, Kênh Tập Đoàn, Gò Ông Kiếng, Gò Găng. [tr49]. Tại di tích Giồng Lớn: phát hiện một di tích mộ táng với 49 mộ nồi và 05 mộ đất. Trong đợt khái quật này, đồ trang sức có số lượng nhiều nhất với 1469 tiêu bản với nhiều chất liệu (thủy tính, đá quý và vàng). Đặc biệt là hai hiện vật nổi in hình đôi mắt và sống mũi bằng vàng, cán mỏng, có lỗ cột dây, mang mặt nạ. Ngoài ra, còn có nhiều loại hiện vật bằng các chất liệu khác như sắt, đá cùng các hiện vật gốm. Niên đại của di tích Giồng Lớn được ước định khoảng 2000 năm cách nay, căn cứ qua so sánh loại hình hiện vật phát hiện trong di tích như đồng tiền Ngũ Thù (thời Tây Hán, có niên đại 206 trước Công nguyên đến năm 25 Công nguyên)[tr52]
- Tại di tích Giồng Lớn, phát hiện 72 ngôi mộ đất. Hiện vật chôn theo trong và ngoài các mộ gồm có: Đồ đất nung: 66 nồi các loại, 38 bát bồng, 24 bình và 01 bình có vòi, 03 vò, 04 chậu, 01 hũ và 105 hạt chuỗi. Đồ thủy tinh: 1092 hạt chuỗi với các dạng hình quả lê, hình cầu, hình trụ, nhiều màu sắc khác nhau như màu xanh, đen, đen sọc trắng, đỏ, tím ,nâu, vàng va 201 khuyên tai. Mã não 51 hạt. Đồ vàng: 03 mặt nạ, 09 khuyên tai, 178 hạt chuỗi, 05 lá vàng, 05 sợi vàng, 01 sợi hình dương vật. Đá Nephrite: 12 vòng hình ống, 02 vòng mặt cắt hình chữ D, 01 vòng có mặt cắt hình tam giác, 14 hạt đá bằng ngọc. Crystal rock: 02 vòng tay, 11 hạt crystal rock. Đồ sắt: 01 kiếm, 01 giáo, 03 dao găm, 08 dao nhỏ, 09 đục [tr91,92]. Đồ trang sức bằng vàng mà cư dân Giồng Lớn có được chắc chắn thông qua con đường giao thương buôn bán. Hai mảnh vàng hình chữ nhật có hình đôi mắt và sống mũi nổi cao, bên ria có các lỗ buộc dây có thể là mặt nạ đeo trên mắt người quá cố. Đây là loại hình hiện vật tìm thấy ờ Philippine và ở Micène (Hy Lạp) có niên đại khoảng thế kỷ XVI trước Công nguyên [tr93]. Vùng đất này đã khởi nguồn cho một nền kinh tế hàng hóa manh nha từ nội địa Bưng Bạc, Bưng Thơm và phát triển ở khu vực Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ. Sưu tập đồ trang sức phát hiện trong các di tích ở đây đã đến từ các vùng đất khác như Đông Nam Á, Ấn Độ, Sa Huỳnh,…là một minh chứng khẳng định [tr93]
- Di tích Cồn Miếu Bà thuộc Côn Đảo. Niên đại ước tính từ 2.200 năm đến 2500 năm cách nay. Phát hiện di tích mộ táng với nhiều đồ gốm còn nguyên dạng. Phát hiện 21.642 mảnh gốm, trong đó có 234 mảnh có hoa văn. Phát hiện rất nhiều đồ đá, chủng loại đa dạng. Phát hiện đồ kim loại gồm: 01 tiêu bản vòng khuyên đồng, 01 tiêu bản vòng tay sắt, 01 tiêu bản mũi nhọn sắt, 01 tiêu bản mảnh dao sắt. Phát hiện cả nồi nấu kim loại, xỉ sắt và cả những chiếc bình, vò vai gãy trang trí bằng các nét vạch, các đồ án hình chữ S gãy góc hoặc mềm mại [tr104-106]
- Từ số liệu thu thập được trong các đợt khai quật có thể thấy rằng Bưng Bạc nổi bật loại hình di tích – xưởng chuyên chế tác đồ trang sức mà nổi bật là làm vòng tay đá. Ngược lại, với các phát hiện ở Bưng Bạc, tại di tích Bưng Thơm là sự nổi trội của nghề luyện kim đồng. Các hiện vật khảo cổ phát hiện trong hai di tích xưởng này đã thể hiện rõ quy trình chế tác vòng tay đá ở di tích Bưng Bạc, cũng như quy trình kỹ thuật luyện kim đúc đồng ở Bưng Thơm. Đồng thời cho thấy nhiều khả năng Bưng Bạc, Bưng Thơm là những làng nghề thủ công mà sản phẩm của cư dân ở đây chế tác ra có thể còn mang tính chất hàng hóa dùng trong trao đổi với các công đồng cư dân khác [tr109]
- Hiện tượng thiếu vắng các công cụ chuyên dụng cho thấy dấu hiệu tách bạch giữa sản xuất thô và hoàn thiện sản phẩm. Trong các di tích khảo cổ học ở miền Đông Nam Bộ, việc phát hiện vòng tay có niên đại từ 3000 – 2500 năm cách ngày nay không cho thấy họ tự sản xuất những sản phẩm cho mình mà có thể đã nhận từ một nguồn sản xuất khác về để sử dụng. Rõ ràng khi so sánh về kỹ thuật đến chất liệu sản phẩm cho thấy, miền Đông Nam Bộ thời tiền sử đã có những khu vực chuyên sản xuất những sản phẩm quan trọng cho cộng đồng và phân phối để sử dụng [tr273]
- Tổng số hạt thủy tinh phát hiện tại di tích Giồng Lớn trong đợt khai quật thứ nhất là 1101 tiêu bản, lần thứ 2 là 536 hạt. Hình dạng gồm hình quả lê, hình trụ, hình cầu dẹt, hình con tiện. Màu sắc: xanh biển, xanh cobalt, xanh nõn chuối …. Ngoài hạt thủy tinh, còn phát hiện nhiều loại hình di vật khác làm bằng thủy tinh. Vấn đề đặt ra ở đây là nghề chế tác đồ thủy tinh có nguồn gốc từ đâu và được chế tác như thế nào? [tr276]
- Nhóm nghiên cứu của Yuko Hirano và các cộng sự, năm 2009, sau khi phân tích tỉ mỉ về các di vật thủy tinh đã kết luận rằng những sản phẩm thủy tinh phát thiện trong các di tích khảo cổ học ở Đông Nam Bộ là sản phẩm được chế tác tại chỗ theo phương pháp chế tạo thủy tinh truyền thống Ấn Độ [tr276]
- Sưu tập khuôn đúc khá lớn và đa dạng loại hình phát hiện trong các di tích thuộc địa bàn Bà Rịa – Vũng Tàu cho thấy trên vùng đất này từ 3000 năm trước đã có một nghề luyện kim rất phát triển. Trong sưu tập khuôn đúc phát hiện trong các di tích này có cả những khuôn đúc chế tác dở dang và phần lớn khuôn phát hiện trong khu vực này là loại khuôn giữ - có thể sử dụng được nhiều lần. Điều đó cho thấy khu vực Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng và Đông Nam Bộ nói chung là một trung tâm kim khí phát triển, có nhiệm vụ chế tác khuôn đúc, vốn là một công đoạn quan trọng của nghề luyện kim [tr278,279]. Dễ nhận thấy là có rất nhiều điểm chung với trung tâm kim khí Đông Bắc Thái Lan từ loại hình khuôn đúc, sản phẩm và cả thành phần hợp kim[tr280]
- Gốm vẽ màu là một yếu tố văn hóa độc đáo, lần đầu tiên phát hiện trong các di tích tiền sử Việt Nam, mà hầu hết tập trung trong các di tích khảo cổ học Bà Rịa Vũng Tàu. Gốm vẽ màu có niên đại sớm nhất được phát hiện ở văn hóa thuộc thời đại đá mới ở Lưỡng Hà (thiên niên kỷ VII-VI TCN). Còn ở Đông Nam Á thì nổi bật nhất là Ban Chiang, Ban Nadi (Thái Lan), có niên đại muộn, gần gũi với các di tích Bưng Bạc, Bưng Thơm của Bà Rịa Vũng Tàu [tr291]. Việc phát hiện gốm vẽ màu trong các di tích tiền sử Bà Rịa Vũng Tàu cho thấy tính giao lưu và hội nhập giữa các vùng, nhất là sự giao lưu văn hóa Đông Nam Bộ và Đông Bắc Thái Lan, cùng với sự phát triển các yếu tố văn hóa khác nhau như luyện kim đã thực sự chứng minh cho thấy Bưng Bạc, Bưng Thơm là một đỉnh phát triển của tiền sử Bà Rịa Vũng Tàu khoảng 3000 năm trước [tr292]
- Vào khoảng 500 TCN đến thế kỷ III-II TCN trên khu vực Đông Nam Á lục địa và hải đảo xảy ra quá trình tiếp biến văn hóa mà trước đây nhiều học giả gọi là hiện tượng “Ấn Độ hóa”. Hay sau này nhiều nhà khảo cổ học gọi là “sự đột biến văn hóa”. Gần đây, người ta nhận ra nguyên nhân sâu xa của quá trình tiếp biến văn hóa này là do ảnh hưởng mạnh mẽ của sự lan tỏa những mạng lưới thương mại buôn bán, đặc biệt là mạng lưới buôn bán trên biển từ vùng bờ biển Đông Ấn Độ đến những khu vực khác nhau của Đông Nam Á lục địa và hải đảo [tr330]. Cộng hưởng cùng khuynh hướng phát triển thương mại, nghề thủ công chế tạo hạt chuỗi bằng đá quý phát triển hơn bao giờ hết. Đây là một nghề xuất hiện ở Ấn Độ ở thiên niên kỷ thứ II-II TCN [330]. Đến khoảng năm 600 TCN Ấn Độ mới bắt đầu biết đến thị trường Đông Nam Á và thị trường này nhanh chóng thu hút sản phẩn hạt chuỗi chế tạo từ Ấn Độ. Kỹ thuật và nguyên liệu từ Ấn Độ cũng du nhập vào Đông Nam Á rất sớm và rất nhanh [tr331]
- Ariyankupam, chỉ cách bở biển ở Nam Ấn 3km là một di chỉ nổi tiếng. Kết quả khai quật cho thấy đây là một trung tâm sản xuất hạt chuỗi quy mô lớn. Người thợ thủ công ở đây sản xuất hạt chuỗi mã não, agate, và thủy tinh với khá nhiều loại hình. Phương pháp sản xuất thủy tinh ở đây được xem là tiêu biểu cho kỹ thuật sản xuất hại chuỗi thủy tinh đơn sắc bằng phương pháp kéo thủy tinh (lada). Kỹ thuật này thường để lại những dấu vết riêng, rất thuận tiện cho việc xác định nguồn gốc của thủy tinh sớm. Chuỗi hạt mã não Ấn Độ được phát hiện ở Ban Don Ta Phet và ở một số di tích Sa Huỳnh ở Việt Nam có niên đại sớm nhất khoảng 400 năm TCN. [tr333]
- Rất nhiều di tích khảo cổ học trong niên đại thế kỷ V TCN đến thế kỷ I-II AD chứ đựng những đồ trang sức Ấn Độ, Trung Cận Đông, thế giới Roman. Chúng ta cũng có những sưu tập đồ trang sức thương mại giàu có ở trong các di tích mộ táng vùng cận Biển Đông của Vũng Tàu, Cần Giờ , vùng hạ lưu Đồng Nai, từ đây có thể khẳng định chắc chắn rằng phần lớn những hạt chuỗi Ấn Độ đến các di tích này, cũng như Sa Huỳnh, là từ những di tích xưởng chế tạo hạt chuỗi thương mại ở Nam và Đông Ấn Độ. [tr334]
- Mặt nạ vàng ở Giồng Lớn rất giống mặt nạ vàng ở các di tích tiền sử muộn ở Java, Indonesia. Lần tìm nguồn gốc những hiện vật vàng này, John Miksic cho chúng ta thấy rằng khoảng 300 năm trước Công nguyên, các thương cảng cổ dọc bờ biển miền Trung và Nam Việt Nam là những điểm rất quan trọng trên con đường thương mại qua biển Đông nối châu Á với thế giới phương Tây. [tr345]
- Những khuyên tai hai đầu thú bằng đá ngọc nephrite nguyên liệu từ mỏ ngọc Đài Loan có mặt ở Khao Sam Kaeo (Thái Lan), Gò Mả Vôi (Quảng Nam, Việt Nam) [tr348]
- Hạt chuỗi mã não được coi là di vật điển hình về quan hệ với Ấn Độ [tr350]. Hạt chuỗi Indo-pacific, tên gọi chỉ hạt chuỗi nhỏ, không định hình, rất nhiều màu sắc khác nhau và kỹ thuật chế tạo nguyên thủy là ở Ấn Độ rồi được chuyển tải đến các quốc gia khác ở Nam Ấn trong thiên niên kỷ I TCN. Kỹ thuật làm hạt chuỗi này gọi là kỹ thuật kéo ống Lada. Đây là kỹ thuật sản xuất hàng loạt hạt chuỗi thủy tinh từ một ống thủy tinh có lỗ rỗng kéo ra trong quá trình nấu thủy tinh. Thủ thuật thành công là ở chỗ, người thợ phải có kinh nghiệm nhận biết khi nào độ chảy của thủy tinh đến độ kéo để nó không bị dính [tr351]. Loại hình hạt chuỗi rất nhỏ, màu gạch, xương đục chứ không trong như loại hạt chuỗi thông thường thì thuộc loại hạt chuỗi Multusalah . Loại này rất phổ biến ở di tích Giồng Lớn, các di tích văn hóa Sa Huỳnh, Óc Eo, Campuchia, Thái Lan, Philippine, Indonesia, Malaysia. Đặc biệt, những hạt chuỗi thủy tinh loại hình multisalah màu đỏ thổ hoàng đục tìm thấy ở khu vực này, sau khi phân tích thành phần cho biết chúng thuộc hai loại thủy tinh, một loại thủy tinh hỗn hợp giàu Kali và phần lớn là thuộc loại thủy tinh Potash (Kali Carbonat). Theo các tài liệu trước đây (Francis P 1990), loại thủy tinh này là đặc trưng của khu vực Nam Ấn, đặc biệt là di tích ở Arikamedu, cuộc khai quật gần đây nhất ở di tích này đã cho thấy nhiều bằng chứng hơn về quy trình chế tạo chuỗi hạt thủy tinh tại chỗ quy mô khá lớn của nó cũng như chuỗi thời gian kéo dài của nghề thủ công chuyên hóa này tại Arikamedu. Từ những tài liệu khảo cổ học ở cụm cận biển Đông Nam Bộ như Giồng Lớn, Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt, chúng ta có thể khẳng định niên đại có mặt của chuỗi hạt thủy tinh và đá quý – dòng hạt chuỗi thương mại - ở miền nam Việt Nam sớm hơn rất nhiều niên đại có ghi chép trong thư tịch Trung Quốc và các tài liệu Sankrit cổ của Ấn Độ. Điều này cũng xảy ra trên các địa bàn khác ở Đông Nam Á. [tr351 352]
Như vậy:
Rõ ràng đã có những bằng chứng khách quan và nhận định của giới chuyên môn xác nhận về mối quan hệ thương mại giữa khu vực Ấn Độ, và có thể cả phía tây, với phần Đông Nam Á lục địa và hải đảo từ nhiều thế kỷ trước cột mốc Công nguyên, “sớm hơn rất nhiều niên đại có ghi chép trong thư tịch Trung Quốc và các tài liệu Sankrit cổ của Ấn Độ”. Điều này cũng có nghĩa là các bộ sử viết về lịch sử cổ đại trên đất Việt Nam, mà cho đến nay vẫn dựa nhiều vào các nguồn thư tịch cũ, chủ yếu là của Trung Hoa, đã có một độ vênh khá lớn so với thực tế.
Tiến trình Ấn Độ hóa đã diễn ra sớm hơn và mạnh hơn so với quan niệm truyền thống. Thậm chí tôi cho rằng cột mốc “Đến khoảng năm 600 TCN Ấn Độ mới bắt đầu biết đến thị trường Đông Nam Á”, vừa được trích dẫn ở trên, như một mở đầu về tiến trình Ấn Độ hóa, là một cột mốc muộn hơn thực tế. Con đường ven biển từ Lưỡng Hà qua Ấn Độ sang phía Biển Đông có lẽ đã được thiết lập hai chiều từ những bước đầu di dân của nhân loại và vẫn được duy trì ở mức độ nào đó. Trong các tài liệu khảo cổ và ghi chép của người Sumer, chủ nhân đầu tiên của nền văn minh Lưỡng Hà, từ khoảng 3000 năm TCN, cho thấy bằng chứng về mối giao thương lớn với vùng Kerala ven biển phía nam Ấn Độ cách đó gần 4.000km, (xem https://vi.wikipedia.org/wiki/Kerala). Dĩ nhiên, với nhu cầu cạnh tranh và tối đa hóa lợi nhuận thường trực, các thương nhân không thể không mở rộng sự tìm kiếm sang phía đông. Sự hiểu biết của thương nhân ở Ấn Độ về phía Biển Đông hẳn là trội hơn các thương nhân ở Lưỡng Hà, và tất nhiên là cả thương nhân châu Ấu, mà kiến thức của họ thu được đã giúp cho các học giả châu Âu từ vài thế kỷ trươc Công nguyên có những hình dung nhất định về ven biển phía đông châu Á (xem https://digitalmapsoftheancientworld.com/ancient-maps/) như thế đủ hiểu rằng đã có những mối liên hệ rất sâu xa từ nến văn minh Ấn Độ đối với khu vực Đông Nam Á.
Như vậy thì việc cho rằng ở thời cổ đại có những dòng chảy phát triển đi từ thế giới phía tây sang phía nam rồi ra phía bắc, dựa vào đường biển, mà khu vực Việt Nam nằm trên con đường đó, là phù hợp với thực tế.
Ở phía bắc cũng có những dấu tích của văn minh Ấn Độ nhưng sự thể hiện về mức độ phát triển lẫn niên đại không thể so sánh với phía nam, mà ngoài các di chỉ trên đất Bà Rịa Vũng Tàu còn có các di chỉ tầm cỡ hơn, như Dốc Chùa (trung tâm kim khí) ở Bình Dương, Óc Eo (trung tâm buôn bán) ở An Giang… là những minh chứng.
Bên cạnh những bằng chứng khảo cổ học đã được nêu, là nhiều bằng chứng về ngôn ngữ mà tôi đã trình bày trong các bài viết trước, cung cấp mối liên hệ sâu xa giữa Việt với Hindi và Champa. Mà Champa cũng rõ ràng chịu ảnh hưởng lớn từ nền văn minh Ấn Độ và khu vực biển đảo phía nam:
- Ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ đến khu vực Viễn Đông xét từ phương diện ngôn ngữ https://hoangcuongtp.blogspot.com/2023/09/anh-huong-nen-van-minh-o-en-khu-vuc.html
- Mối liên hệ giữa từ ngữ Chàm, Việt và Hán Việt
https://hoangcuongtp.blogspot.com/2023/03/moi-lien-he-giua-tu-ngu-cham-viet-va.html
Quan niệm chủ đạo hiện nay vẫn coi lịch sử của dân tộc Việt Nam là tiến trình một chiều từ bắc vào nam. Thực tế quan niệm này bị chi phối bởi một tiến trình muộn, và không nhiều tính cơ học như cách hiểu hiện nay. Dưới tinh thần Bắc gốc Nam ngọn của các triều đại phong kiến Việt Nam, diện mạo của lịch sử có thể đã bị làm cho sai lệch theo chủ ý. Tiến trình muộn đó còn gắn liền với tinh thần cai trị của Nho giáo, trong đó có quan niệm “dĩ nông vi bản”, buộc chặt người dân vào ruộng và làng cho tiện việc cai trị. Việc này dĩ nhiên hạn chế sợi dây liên hệ của dân tộc với thế giới bên ngoài, góp phần tạo ra nhận thức không đúng, là người Việt vốn từ xưa đến nay ít có truyền thống biển. Nói cánh khác thì họ đã bóp nghẹt truyền thống biển của dân tộc.
Tư tưởng nặng về đất liền mà nhẹ về biển vẫn ảnh hưởng khá mạnh, trong những diễn giải khảo cổ và lịch sử. Ngay trong cuốn sách trên vẫn phải trích phát biểu của một lão làng trong lĩnh vực khảo cổ học Việt Nam là: “kỹ thuật làm thủy tinh có tính chất bản địa và xuất hiện ở nước ta tương đối sớm. Trên cơ sở những kết quả đạt được, chúng ta thấy rằng giả thuyết về sự du nhập của những đồ thủy tinh từ bên ngoài vào nước ta ở những thế kỷ đầu Công nguyên là điều không thể chấp nhận được” tr274. Có thể coi đó là một cách cân bằng của các tác giả sách bên cạnh những phát biểu có tính “hướng ngoại” dựa trên các bằng chứng thực tế. Ngoài ra thì cách diễn giải rằng cư dân đồng bằng ven biển vốn là những cư dân từ vùng cao tiến xuống theo tiến trình bồi lấp đất đai và sự thay đổi tập quán sinh sống, một tư tưởng phủ bóng trong rất nhiều công trình được phổ biến, cũng cần được xem lại.
Sự hình thành của một cộng đồng cư dân mới ở vùng thấp rất có thể do các nhóm cư dân ở có tập quán sống vùng thấp từ nơi khác chuyển đến, chứ không hoàn toàn phải từ vùng cao xuống. Thậm chí trên thực tế thường xảy ra xu hướng ngược lại. Những thành tố ngoại lai này có thể có trình độ phát triển cao hơn, góp phần tạo nên dấu ấn, diện mạo của vùng đất mới.
Theo hướng vừa trình bày, tôi thử giải quyết vấn đề địa danh Bà Rịa, một vấn đề vẫn còn chưa rõ ràng và để lại nhiều tranh luận.
Nếu từ phía nam đi lên theo đường biển thì có thể coi khu vực Bà Rịa là một cửa ngõ án ngữ miền Đông, khi đó Vũng Tàu vẫn chủ yếu là đất ngập nước chứ không phải như ngày nay. Bên cạnh đó thì vùng cửa sông Hậu sẽ là cửa ngõ miền Tây. Vùng này ngày xưa còn có tên là Ba Thắc, có cửa Ba Thắc là một cửa lớn, nay đã bị lấp bồi.
Các nhóm từ phía nam đi lên rất có thể là các nhóm thương nhân và dân chinh phục ở ven biển phía nam Ấn Độ, mà trên bài này đã thể hiện là có khu vực ảnh hưởng Nam Bộ thời sơ sử.
Hai cái tên Bà Rịa và Ba Thắc gần âm với một cặp từ trong tiếng Telugu, được sử dụng rộng rãi ở vùng ven biển phía nam Ấn Độ, là Bhārya (vợ) và Bharta (chồng). Thông tin này bạn đọc có thể kiểm tra theo chương trình Google translate Tiếng Việt - Tiếng Tegulu.
Lịch sử thành văn của Trung Quốc có chép lại từ một nhân vật tên là Khang Thái, làm quan cho nhà Đông Ngô, đi sứ đến Phù Nam vào năm 226. Phù Nam bao gồm cả vùng Nam Bộ ngày nay. Khang Thái chép rằng vùng đất này vốn xưa có một nữ nhân tên là Liễu Diệp làm vua. Sau đó có một nam nhân tên là Hỗn Điền cùng đội thuyền từ phía nam đến chinh phục, lấy nữ nhân này làm vợ. Con cháu họ được chia địa bàn thành bảy vùng. Về sau Bàn Huống thôn tính được tất cả. Sách của Khang Thái thì đã thất truyền, nhưng câu chuyện trên đã kịp đi vào các bộ sử lớn của Trung Quốc như Nam Tề thư, Lương thư…
Phải chăng Bà Rịa và Ba Thắc chính là đất vợ và đất chồng trong tiếng Tegulu? Bây giờ thì mọi kiến giải chỉ dừng ở mức giả thuyết chứ không thể nào chắc chắn được.