Search This Blog

Sunday, September 3, 2023

Tìm hiểu về tiếng nói người Việt ở thế kỷ 13

 

Năm 1293, sau các cuộc chiến tranh với Đại Việt, triều đình nhà Nguyên cử một sứ đoàn sang nối lại quan hệ bang giao. Trong đợt này, viên phó sứ là Trần Cương Trung 陳剛中 còn gọi là Trần Phu 陳孚, đã ghi chép khá nhiều chi tiết về xã hội Đại Việt, thành một bản sách gọi là An Nam Tức sự. Trong đó, tác giả đã mô tả âm chỉ một số khái niệm trong tiếng Việt, bằng cách gán với một chữ Hán đồng âm. Tổng số được liệt kê là khoảng 20 từ, tuy không nhiều nhưng đó là những chứng cứ quan trọng giúp chúng ta có thể ít nhiều hình dung về tiến trình biến đổi ngôn ngữ của người Việt.

Bạn đọc có thể xem bản dịch tiếng Việt đầy đủ An Nam Tức sự trên diễn đàn Otofun: https://www.otofun.net/.../dich-sach-co-an-nam-tuc-su.../
Trên trang của Viện Hán Nôm cũng có đăng một bài của tiến sĩ Phạm Văn Thấm, giới thiệu chung về tác phẩm và chọn dịch một đoạn về tiếng Việt. Bạn đọc có thể xem tại đây . http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1550&Catid=718
Nhận xét sơ bộ là hai bản dịch này, sử dụng hai bản gốc chữ Hán khác nhau, có nhiều chỗ dị biệt. Theo một số trao đổi, chia sẻ từ các diễn đàn thì có lẽ hiện nay An Nam Tức sự còn có những bản khác nữa. Tình trạng tam sao thất bản ở các văn bản chữ Hán chép tay là rất phổ biến. Nguyên nhân thì nhiều, có thể là do chép nhầm chữ, do suy diễn chủ quan của người chép hay do chủ ý nào đó.
Tôi sẽ chủ yếu dựa vào bản thứ nhất để phân tích.
Một nhận xét khi xem các nội dung bản dịch và trao đổi về An Nam tức sự, diễn ra trên các diễn đàn, là người ta quy âm gốc vào âm Hán Việt. Ví dụ:
Chồng gọi là “trùng” 重
Tức là sẽ khiến người đọc hiểu rằng người phụ nữ Việt ở thế kỷ sẽ phát âm là TRÙNG khi gọi người chồng.
Trong khi lẽ ra phải làm rõ là người Trung Quốc phát âm chữ 重 như thế nào. Thực tế chữ này được phát âm theo tiếng phổ thông Trung Quốc theo các cách là CHÓNG/TÓNG/ZHÒNG (theo từ điển Hán Nôm hvdic.thivien.net), chứ không phải là TRÙNG.
Chúng ta có thể lập luận rằng không thể coi âm Bắc Kinh ngày nay giống thời thế kỷ 13, tuy nhiên khó mà bác bỏ rằng đó là cơ sở gần nhất để đối chiếu. Mặc dù từ đó về sau chính trị Trung Quốc còn bị chi phối bởi người Mông Cổ rồi Mãn Thanh trong thời gian khá dài, nhưng họ là những tập hợp thiểu số ở mức khó mà gây nên sự biến đổi đáng kể đối với tiếng nói ở Trung Nguyên. Sự biến đổi tự nhiên thì diễn ra rất chậm.
Một hướng lập luận khác có thể được sử dụng để bảo vệ cho việc chỉ quy về âm Hán Việt chứ không phải âm Bắc Kinh hiện đại, là người ta dựa trên quan niệm âm Hán Việt là âm Hán cổ để cho rằng các âm Hán ngày đó gần với âm Hán Việt hơn là với âm Bắc Kinh ngày nay. Tuy nhiên, trong bản Dư Địa chí, Nguyễn Trãi đã ghi nhận rằng “Tiếng Ngô nói đầu lưỡi, phải dịch rồi mới biết”. Tức là một nhà Nho uyên thâm như Nguyễn Trãi cũng phải coi đó là một ngoại ngữ. Nguyễn Trãi chỉ sống sau giai đoạn trên khoảng một thế kỷ.
Vậy có lẽ người Việt ở thế kỷ 13 có thể đã gọi theo âm thứ 3 ở trên, là ZHÒNG. Âm ZH khá gần âm CH. Tức là người ta đã phát âm gần giống như ngày nay, hoặc thậm chí là giống hẳn nhưng người ngoại quốc ký âm lại thì bị lệch một chút.
Bây giờ xin thảo luận cụ thể các trường hợp:
- Gió gọi là “giáo” 教
Chữ 教 bính âm là jiāo.
Vậy xin dịch lại như sau; Gió gọi là jiāo
- Mây gọi là “mai” 梅
Chữ 梅 bính âm là méi.
Vậy xin dịch lại như sau: Mây thì gọi là méi.
Nhận xét: âm này ít hoặc không bị biến đổi.
- Núi gọi là “can ôi” 乾隈 (bản 1); sơn (山) là can ổi (干猥) (bản 2)
Hai trường hợp này tuy chữ khác nhau nhưng âm Bắc Kinh là tương tự nhau: Gan wei, chứ không phải là Can ôi – Can ổi
Người Việt cũng có thể dùng từ Cái để đặt trước sự vật, tức là có thể từ mà Trần Phu nghe được có nghĩa là: Cái núi
Hãy để ý rằng phương ngữ tiếng Việt vùng khu 5 hiện nay nói Cái-núi thì âm C khá gần âm G, âm I đầu tiên hầu như bị ẩn, vị trí âm N khá khó phân biệt là thuộc về âm tiết thứ nhất hay thứ 2. Ngoài ra thì âm G trong các ký âm quốc tế cũng khá gần với âm K/C trong tiếng Việt.
Vậy thì Gan wei = Ca nwei = Cái núi
Có thể thấy trường hợp này tiếng Khu 5 còn lưu giữ âm cổ hơn tiếng Việt phổ thông. Và Trần Phu đã nghe khá chính xác.
- Nước gọi là “lược” 掠
Chữ 掠 bính âm là lue/lu.
Tôi cho rằng ban đầu người ta gọi là Lu để chỉ nước, mà nay dấu vết còn lại là từ Lũ. Sau đó có sự phân chia thành Lước và Lũ. Ngày nay nhiều khu vực ở phía đông đồng bằng Bắc Bộ vẫn gọi là Lước.
Khi làn sóng di cư từ Bắc Trung Bộ ra, bắt đầu từ thế kỷ 15, họ mang theo từ Nác, cùng nghĩa. Hai từ Nác và Lước hòa trộn vào nhau thành từ Nước.
Xin bàn thêm, là từ Nước, chỉ quốc gia, hay xứ sở, có lẽ không phải là trường hợp cùng gốc với từ vừa thảo luận. Từ gần nghĩa và âm nhất của nó là Nưgar (cũng có thể phát âm là Nưkăn, trong tiếng Cham). Tôi cho rằng cặp đó mới là cùng gốc.
- Miệng gọi là “mính’’ 皿
Bính âm của chữ 皿 là min/ming
Tức là Miệng gọi là min/ming.
- Cha gọi là “tra” 吒
Bính âm của chữ 吒 là Chà hoặc Zha (gần âm với Cha) chứ không phải là Tra
Tức là trường hợp này cũng không có nhiều biến đổi.
- Mẹ gọi là mi 媚
Bính âm của chữ 媚 là mèi chứ không phải là Mi. Có thể thấy tiếng này từ đó đến nay ít biến đổi
- Con trai gọi là “can đa” 乾多. Con gái gọi là “vu đa” 于多, hay “can cái” 乾 葢 (bản 1); nam tử (男子) là tử đa (子多), nữ (女) là tử cái (子丐) (bản 2)
Trường hợp này có sự khác nhau rõ rệt giữa hai bản. Các từ được dịch Hán Việt lại đều có vẻ khá lạ lẫm.
Sau khi kiểm tra bính âm các chữ Hán và phân tích kỹ thì tôi nhận thấy bản 1 có cơ sở hơn. Xin diễn giải theo bản 1, như sau:
Con trai gọi là gan duo; con gái gọi là yu duo; con gái khác gọi là gan gài
Để ý rằng âm D ở đây nằm giữa âm D và Đ trong tiếng Việt, âm G thì hơi gần âm K/C.
Tức là ba từ trên có thể là: Con đó; Du đó (Du = con dâu); Con gái
Có thể hiểu rằng vị quan người Việt đang giới thiệu với khách về ba người trẻ, là con trai, con dâu và con gái (đang ở cùng)
Các âm này cũng không lạ lẫm mấy đối với người Việt hiện nay. Và đây lại là một trường hợp cho thấy sự gần gũi giữa âm Việt cổ và phương ngữ khu 5 hiện nay.
- Chồng gọi là “trùng” 重
Bính âm của chữ 重 là chóng/zhòng. Âm Zhòng khá gần với âm Chồng hiện nay, chứ không có Trùng nào cả
- Vợ gọi là “đà bị” 陀被
Bính âm của hai từ này là: duò bèi. Âm D gần với âm Đ.
Có thể thấy hiện nay phương ngữ khu 5 phát âm từ đàn-bà cũng gần giống vậy.
- Tốt gọi là “lãnh” 領 lǐng/leng. Không tốt gọi là “trang lãnh” 張領 (bản 1);
hảo (好) là phả (頗), bất hảo (不好) là trương phả (张頗) (bản 2)
Sau khi kiểm tra bính âm các chữ Hán và phân tích kỹ thì tôi nhận thấy bản 1 có cơ sở hơn.
Chữ 領 bính âm là lǐng/leng . Phương ngữ khu 5 phát âm từ Lành gần giống Leng.
Tức là người Việt ở thế kỷ 13 gọi Tốt là Leng (cũng có thể họ gọi là Lèng hay Lành, mà Trần Phu diễn tả chưa chính xác.
Không tốt được gọi là zhāng lǐng. Không tốt tức là chẳng lành. Theo phương ngữ khu 5 này nay từ này thì chẳng-lành cũng khá gần với âm quốc tế của từ zhāng lǐng.
Còn một số khái niệm là: Trời, Đất, Mặt trời, Trăng cũng được Trần Phu kể đến. Các trường hợp này tôi thấy giải thích chưa ổn lắm, tuy nhiên cũng tạm đưa ra đây để cùng trao đổi.
• Trời gọi là “bột mạt” 勃末
Bính âm cặp chữ Hán 勃末 là bómò
Trường hợp này khá khó hiểu. Nếu chấp nhận cách ghi nhận này tức là cho rằng ở thế kỷ 13 người Việt gọi Trời bằng một cái tên mà rất khác bây giờ.
Mặc dù nhiều phân tích đã chỉ ra âm Tr xuất hiện hoặc phổ biến trong tiếng Việt khá muộn. Các ký âm latin Ở thế kỷ 17 cho thấy như vậy. Người ta chép: Blời (Trời), Tlên (Trên) …
Hiện nay phương ngữ Việt nhiều nơi vẫn còn chưa phát âm rõ âm Tr. Trong tiếng Mường, một ngôn ngữ rất gần gũi với tiếng Việt, thì đến nay vẫn không có âm Tr.
Có thể thế kỷ 17 người ta đã nói là Blời, hoặc gần như thế, nhưng các bản An Nam tức sự đều có vấn đề ở chỗ này.
Có người nhận xét rằng trường hợp chữ 末 là do người ta chép nhầm từ chữ 耒 mà ra. Chữ 耒 bính âm là lěi , âm Hán Việt là Lỗi.
Tức là Trời vốn được gọi là bólěi (勃耒). Âm này quả đã gần giống Blời.
• Mặt Trời gọi là “phù bột mạt” 扶勃末
Theo điều tôi vừa phân tích thì trường hợp này cũng có thể chép nhầm, từ chữ 耒 ra chữ 末. Tức là đúng ra phải là 扶勃耒
Chữ đầu tiên là 扶, bính âm là Fú, Pú. Chữ này thực là có hai âm Hán Việt là Bồ và Phù. Liệu có khả năng âm Pú – Bồ mới là chính xác?
Các âm Việt sau: Bộ, Bọc, Bao, Bìa đều có thể chỉ cái bên ngoài, cái bộ mặt. Hai âm Bộ và Pú gần giống nhau.
Tức là người Việt đã gọi mặt trời bằng âm BoBlời (bộ mặt của Trời), gần giống âm Púbólěi, mà Trần Phu gán thành 扶勃耒
• Mặt Trăng gọi là “bột lăng” 勃菱
Hai chữ Hán này được bính âm là bólíng. Tức là âm này, chứ không phải “bột lăng”, mới gần với âm Trần Phu nghe được.
Theo ghi chép quốc ngữ của các thầy giảng đạo Thiên Chúa ở thể kỷ 17 thì Trăng được chép là blang. Có sự dịch chuyển từ âm i sang âm a theo thời gian. Xét thêm cả trường hợp gọi Miệng là min/ming thì có lẽ nhiều nguyên âm ngày xưa vốn là âm i rồi bị chuyễn hóa dần.
• Đất gọi là “đắc” 得
Chữ này có các bính âm Bắc Kinh là dē, dé , de , děi. Tuy nhiên âm Quảng Đông lại là dak, gần với âm Việt hiện nay nhất. Trường hợp này tôi thấy cần xem xét thêm.
Mời các bạn cùng thảo luận.

No comments:

Post a Comment