Lần này chúng ta có chấp nhận xét lại lịch sử không?
Hoàng Cương
Mở đầu
Ngày nay, với mức độ tiếp cận thông tin đã tăng lên rất nhiều, thì câu hỏi về giai đoạn lịch sử cổ xưa trong tiến trình dân tộc Việt Nam đã trở thành một vấn đề lớn.
Chúng ta rõ ràng không thể tìm thấy cơ sở khoa học lý giải sự ra đời của huyền sử 18 đời Hùng Vương, tại sao lại có con số như vậy. Nếu lịch sử thời Bắc thuộc đúng như chúng ta biết, thì tại sao Lĩnh Nam ở địa bàn Việt Nam, bất chấp thực tế đây là khái niệm người Trung Quốc đặt ra để chỉ vùng đất phía nam miền núi Ngũ Lĩnh, tức phải là vùng đất Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay. Nếu người Việt và người Mường vốn là từ một cộng đồng, bắt đầu tách ra từ khoảng thế kỷ 7-8, theo nhiều bằng chứng về ngôn ngữ học, thì lý do nào cho sự chia tách đó. Những phát hiện gần đây, như bãi cọc gỗ ở Cao Quỳ hay những khu mộ địa cổ lớn ở vùng Đông Bắc Bộ với rất nhiều di vật, dường như đem thêm bế tắc cho giới nghiên cứu, vì không có cơ sở lịch sử để lý giải.
Những nỗ lực để lý giải những hoài nghi đó đã đưa tôi đi đến những bất ngờ lớn.
Sử Việt vẫn cho rằng người Trung Quốc đô hộ Giao Châu, gồm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam theo thứ tự trải từ miền bắc đến miền trung, hơn 1000 năm liên tục. Việc ghi nhận này là dựa vào sử Trung Quốc, quốc gia đã chiếm đóng. Họ đặt các tên gọi này và viết sử trước người Việt rất lâu.
Thực tế thì Giao Châu chủ yếu ở về phía bắc biên giới ngày nay, còn khu vực Việt Nam, mà chúng ta mặc định là Giao Châu trong thời gian đó, là đất nước mà chúng ta gọi là Văn Lang, còn theo sử sách Trung Quốc thì họ gọi là Lâm Ấp.
Kinh thành của Văn Lang ở khu vực bờ biển phía đông Bắc Bộ Việt Nam, trên một vùng đất hiện nay đã phát hiện các di chỉ cổ dày đặc, bao gồm Việt Khê, Liên Khê, Mạo Khê, Uông Bí, Quảng Yên, Cao Quỳ...
Giữa hai giai đoạn Bắc thuộc có một khoảng thời gian độc lập khá dài, từ thời nhà Hán, cho đến năm 605 thì lại rơi vào ách đô hộ.
Nhà nước cai trị sau đó đem các địa danh từ Lĩnh Nam, tương ứng khu vực Lưỡng Quảng ngày nay, đặt vào miền đất mới.
Việc đổi các địa danh có thể coi là đánh tráo các bằng chứng lịch sử, sau thời gian dài có thể tạo ra một sự mơ hồ trong ký ức cộng đồng, dẫn đến sự ngộ nhận. Họ đã lợi dụng việc này và sửa các ghi chép liên quan trong hệ thống sử sách để đánh tráo khá thành công ký ức cộng đồng của người Việt.
Nói ngắn gọn là người Việt đang mang một ký ức giả. Cổ sử về giai đoạn trước thế kỷ 7 hầu như sai hết. Hệ quả là lịch sử chứa đầy mâu thuẫn, dẫn đến mơ hồ về nguồn gốc và tiến trình hình thành dân tộc.
Nội dung chi tiết sẽ được trình bày dưới đây. Tôi là Hoàng Cương, xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về bài viết.
Vị trí của Giao Châu thời Hán và Lục triều
Địa bàn Quảng Đông và Quảng Tây nước Trung Quốc ngày nay vốn là khu vực độc lập của nhiều bộ lạc, phân biệt với đất của Trung Quốc phía bắc bởi một miền núi non gọi là Ngũ Lĩnh. Xưa họ gọi Lĩnh Nam là vì thế.
Sau khi nhà Tần cho quân vượt Ngũ Lĩnh tiến xuống Lĩnh Nam, mở được ba quận, rồi Triệu Đà và con cháu tiếp tục mở rộng, cho đến khi nhà Hán diệt nhà Triệu năm 111 TCN, thiết lập các quận huyện, thì toàn bộ khu vực này mới thuộc về Trung Quốc.
Lĩnh Nam được đặt tên chính thức là Giao Chỉ bộ, sau đổi là Giao Châu, thời Đông Ngô lại tách thành Giao Châu và Quảng Châu. Từ lúc này Giao Châu gồm ba quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.
Sử sách Việt Nam và Trung Quốc từ thời Đường trở về sau đều coi Giao Châu, gồm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thời trước đều ở trên địa bàn Việt Nam ngày nay, trải theo thứ tự Giao Chỉ ở miền Bắc, Cửu Chân ở Bắc Trung Bộ, Nhật Nam ở Trung Trung Bộ hoặc kéo dài đến Nam Trung Bộ.
Tuy nhiên, có một điều cần được lưu ý là khái niệm châu thời Đường thì không phải là châu thời Hán, bởi vì giữa đó, từ thời Lương đã có một cuộc cải cách hành chính lớn. Họ bỏ các châu được lập từ thời Hán, một đơn vị hành chính rất lớn gồm nhiều quận, lại đổi tên các quận và gọi đó là châu. Vậy Giao Châu thời Hán và thời Đường là hai thực thể khác nhau. Vấn đề đặt ra là Giao Châu thời Hán có phải cũng nằm trên địa bàn Việt Nam không? Nếu để ý kỹ các bộ sử, nhất là soạn trước thời Đường, chúng ta có thể nhận ra sự thật không phải như vậy. Xin đưa ra vài căn cứ.
1. Theo Hậu Hán thư, quyển 76, phần Nhâm Diên truyện thì Thái thú Cửu Chân là Nhâm Diên cùng với Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang có công giáo hóa dân di dần theo lễ nghĩa. "Phong tục Hoa Hạ ở Lĩnh Nam bắt đầu từ hai viên quận thú này" (1).
Mà việc phân biệt địa bàn Lĩnh Nam với Hoa Hạ chính là nhờ các dãy núi thuộc Ngũ Lĩnh ở giữa. Nếu các quận Giao Chỉ và Cửu Chân ở địa bàn Việt Nam, quá xa về phía nam, diện tích lại nhỏ hơn, thì dẫu có miễn cưỡng xếp vào cõi Lĩnh Nam cũng không thể coi là đại diện cho Lĩnh Nam như thế được.
2. Theo Hậu Hán thư, quyển 23, phần Quận quốc chí - ngũ:
“Quận Giao Chỉ thành lập thời Hán Vũ đế (143tr.CN-87tr.CN), tức là nước của An Dương Vương, cách Lạc Dương 1 vạn 1 ngàn dặm về phía Nam, gồm 12 thành: Long Biên, Liên Lâu, Yên Định, Câu Lậu, Mi Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Chu Diên, Phong Khê, đặt ra vào năm thứ 19 niên hiệu Kiến Vũ [43]; Vọng Hải, được lập vào năm thứ 19 niên hiệu Kiến Vũ [43].
Quận Cửu Chân lập thời Vũ đế, cách Lạc Dương 11.050 dặm, gồm 5 thành (46.513 hộ, 209.914 khẩu): Tư Phố, Cư Phong, Hàm Hoan, Vô Công, Vô Biên.” (2)
Khoảng cách dù được tính theo cách nào thì cũng không thể có con số chênh lệch giữa Giao Chỉ và Cửu Chân nhỏ như thế, nếu hai quận này ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam.
3. Theo Sử ký của Tư Mã Thiên, phần Nam Việt Úy Đà Liệt truyện, và theo Hậu Hán thư, quyển 83, phần Nam man truyện, ban đầu nhà Hán chia Nam Việt làm chín quận. Trong đó quận Châu Nhai tức là khu vực đảo Hải Nam. Về sau nhà Hán phải bỏ quận này vì không quản được. Hải Nam chỉ cách đất liền Quảng Đông qua một eo biển rộng khoảng 20km, đứng trong bờ có thể nhìn thấy, nếu không quản được trong khi lại quản được đến đến miền nam Trung Bộ Việt Nam thì rất vô lý.
4. Theo Tam Quốc Chí của Trần Thọ, phần Sĩ Nhiếp truyện, thì khi Sĩ Nhiếp làm Thái thú Giao Chỉ đã từng được nhà Hán phong làm “Tuy Nam Trung lang tướng, cai quản bảy quận”. Đến khi có cục diện Tam Quốc, Sĩ Nhiếp dẫn dụ các họ lớn ở Ích Châu là bọn Ung Khải đem cả dân chúng trong quận sang quy phục phía Đông Ngô (3).
Nếu địa bàn Giao Chỉ ở khu vực Việt Nam ngày nay thì Sĩ Nhiếp có thể can thiệp được xa về phía bắc như thế không? Luy Lâu, nơi Sĩ Nhiếp đóng từng là trị sở chung của Giao Châu, gồm cả 7 quận Lĩnh Nam, nếu ở phía đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam thì rất xa vùng trung tâm, vừa xa kinh đô nhà Đông Ngô, liên lạc bất tiện, vì vậy hoàn toàn không hợp lý.
5. Theo Hậu Hán thư, quyển 86, phần Nam man truyện: "Năm Vĩnh sơ nguyên niên (107) đời An đế, người man di Dạ Lang ở ngoài biên Cửu Chân đem đất xin nội thuộc" (4). Cũng theo sách này, phần Nhâm Diên truyện, có đoạn chép lúc Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân: "Bởi vậy, những nơi man di ngoài cõi như nước Dạ Lang cùng mộ nghĩa mà giữ yên quan ải" (5). Theo đó Cửu Chân có biên giới với Dạ Lang, một xứ mà người ta xác định là ở phía tây tỉnh Quý Châu Trung Quốc ngày nay. Như vậy thì Cửu Chân làm sao lại có thể vừa ở tận phía tây bắc Quảng Tây lại vừa ở bắc trung bộ Việt Nam được.
6. Theo Hậu Hán thư, quyển 86, phần Nam man truyện, năm 137 ở Nhật Nam và Cửu Chân có loạn Khu Liên. Nhà Hán tính cử binh đánh dẹp, nhưng có viên quan là Lý Cố dâng kế sách chiêu dụ. Nội dung thư có đề cập: "Hiện giờ Nhật Nam quân mỏng lương hết, thủ còn không đủ, chiến càng chẳng nên. Khá cho dời tất cả lại dân lên phía bắc dựa vào Giao Chỉ, sau khi việc yên ắng lại quay về bản quán" (6). Cứ theo nội dung này thì Nhật Nam không chỉ tiếp giáp Cửu Chân mà còn phải tiếp giáp phía nam của Giao Chỉ, tức là không có một quận Cửu Chân dài hàng trăm km xen vào giữa. Lại một cơ sở ngược với nhận thức ngày nay về vị trí ba quận này ở Việt Nam.
7. Theo Thủy Kinh chú của Lịch Đạo Nguyên: "Năm Kiến An thứ 16, nhà Ngô sai Bộ Chất người ở Lâm Hoài làm Thứ sử Giao Châu, đem 400 vũ lại đi Giao Châu, đường sá không thông. Thái thú Thương Ngô là Ngô Cự, người quận Trường Sa, có 5000 quân. Chất có ý nghi ngờ Cự, trước sai sứ đến truyền bảo Cự. Cự đón Chất ở Linh Lăng, Chất vào được châu. Cự đã tiếp nhận Chất, sau đó lại hối. Chất nghĩ mình ít quân, e không tồn tại được. Cự có Đô đốc là Khu Cảnh, dũng cảm mưu lược ngang với Cự, được kẻ sĩ nghe theo. Chất ghét, ngầm sai người mời Cự. Cự đến nói với Cảnh, chớ có tới chỗ Chất. Chất mời mãi, Cảnh lại đi, liền bị Chất chém chết cả hai ở sân giữa trước nhà làm việc, đem đầu bêu cho mọi người biết"(7)
Vị trí của quận Thương Ngô đã được biết tương đối rõ, là phần đất Quảng Tây giáp giới với Quảng Đông, và có một phần nay là đất Quảng Đông. Nếu Bộ Chất vào trị sở Giao Châu phải đi qua địa bàn Thương Ngô của Cự, rồi hai bên qua lại được với nhau như thế chứng tỏ khá gần. Vậy thì trị sở Liên Lâu của Giao Châu không thể ở xuống phía nam đến đất Việt Nam.
8. Thủy Kinh chú cũng cho biết các con sông tên là Lô Dung và Thọ Linh chảy trên đất Nhật Nam và đổ vào sông Uất Thủy, tức là các sông này thuộc hệ thống sông Châu Giang. Theo đó Nhật Nam không thể thuộc vùng Trung Bộ Việt Nam.
Những bằng chứng trên đây cho thấy rằng Giao Châu được đề cập đến là ở Lưỡng Quảng chứ không phải Giao Châu ở Việt Nam.
Nhận định này phù hợp với ghi chép của Khuất Đại Quân, tác giả bộ sách Quảng Đông tân ngữ.
Ông là một học giả người Quảng Đông, thế kỷ 17, từng được xếp vào Lĩnh Nam tam đại gia, được Lê Quý Đôn trích dẫn rất nhiều. Chẳng hạn Vân Đài loại ngữ, quyển 3 – Khu vũ ngữ – điều 48 và 72 có các đoạn như sau: “Ta xem mạch núi Giao Chỉ phát từ Quý Châu mà Quý Châu là miền cuối các sông, núi ở đó đều từ Ba Thục chạy tới; đại khái long mạch chạy qua như muôn vàn đợt sóng, nhảy nhót không ngừng, thẳng đến Giao Châu mới kết thành đất nước. Vân Nam là cửa sau, Quảng Tây là cửa trước, mà cõi đông là Quảng Châu và Khâm Châu...”, “Vậy thời Giao Chỉ ở về phía hữu Quảng Đông, mạch Vân Nam, Quý Châu phát ở đó, đủ biết Giao Chỉ là thượng du, cho nên các con ngọn sông ở Quảng Tây đều phát nguyên ở Giao Chỉ, xuống Thương Ngô, rồi chảy ra biển Nam Hải“. Theo dấu hiệu địa lý này thì Giao Chỉ ở phía Lưỡng Quảng chứ không thể là Việt Nam được. Lại chép: “Đất Giao Chỉ có 17 quận, 49 châu, 157 huyện. Mỗi năm nộp thóc cho quan tư nông hơn một nghìn ba trăm sáu mươi vạn hộc. Tính ra tất cả thuế các châu Mân, Quảng, Điền, Kiềm cũng không bằng“. Như vậy, đến thời điểm đó người ta vẫn còn ý niệm về một một xứ Giao Chỉ, cùng với Mân, Quảng, Điền, Kiềm, tất cả phải là những địa phương của Trung Quốc chứ không phải là ngoại quốc.
(Vấn đề này tôi đã viết đầy đủ trong bài bổ sung, cùng đăng trên trang web này: "Thử xác định vị trí một số quận huyện trên đất Lĩnh Nam thời Hán; Tìm khu vực trống đồng; Tìm kiếm căn nguyên của một số ngộ nhận lịch sử."
Đến thời nhà Đường thì Giao Châu rõ ràng đã là vùng đất ở Việt Nam. Vậy thì giữa quãng thời gian từ đầu thế kỷ 6, lúc Lịch Đạo Nguyên viết Thủy Kinh chú, đến thời Đường đã có việc dời địa danh này xuống cho phía nam.
Sự thay đổi lớn như vậy mà chúng ta không thấy ghi nhận thì chỉ có một lý do: Nó đã bị che đậy một cách có hệ thống.
Người Trung Quốc từ rất sớm đã có các tài liệu, do các tác giả độc lập, viết riêng về các khu vực phía nam, như "Giao Châu ngoại vực ký", "Giao, Quảng Xuân Thu nhị châu", "Quảng Châu ký", "Lâm Ấp ký", "Nam Việt chí"... Các tài liệu này đều có mức độ phổ biến nhất định khi mà trong bối cảnh phân liệt bắc nam thì Lịch Đạo Nguyên ở phía bắc vẫn có để tham khảo, về sau đều biến mất.
Thủy Kinh chú
Tác giả Thủy Kinh chú là Lịch Đạo Nguyên (466 hoặc 472-527). Ông biên soạn sách này vào khoảng năm 515-527. Lịch Đạo Nguyên dựa vào một tác phẩm có từ trước là Thủy Kinh, mô tả sơ lược 137 con sông, và tham khảo rất nhiều tài liệu để nâng cấp toàn diện, dung lượng gấp 20 lần sách gốc, trình bày 1252 con sông lớn nhỏ.
Lịch Đạo Nguyên mô tả hướng chảy của các con sông từ đầu đến cuối nguồn, đồng thời kết hợp cung cấp các thông tin về văn hóa và lịch sử ở những địa phương chúng chảy qua. Thông tin trong Thủy Kinh chú vì vậy rất phong phú và đặc biệt. Các nhà nghiên cứu cổ sử Việt Nam đã khai thác rất nhiều từ bộ sách này.
Một điều ngạc nhiên là mô tả trong Thủy Kinh chú về một số con sông, gắn liền với các quận huyện thuộc Việt Nam, nhưng lại chảy vào Uất Thủy, tức là sông Châu Giang. Để lý giải được chỗ trái khoáy này, người ta buộc phải chấp nhận rằng Lịch Đạo Nguyên quan niệm bờ biển nơi các sông của Việt Nam chảy ra cũng là sông Uất Thủy. Các học giả như Hùng Hội Trinh (8), người dành hàng chục năm để chú giải bổ sung cho Thủy Kinh chú, và Đào Duy Anh, tác giả công trình Đất nước Việt Nam qua các đời, chấp nhận quan niệm này (9).
Một cơ sở để chấp nhận quan niệm ngớ ngẩn đó có thể là đoạn Thủy Kinh chú chép về sông Uất Thủy: ""Sơn hải kinh" nói: sông Uất Thủy ra từ Tượng Quận, chảy về phía tây nam đổ vào biển Nam Hải vào phía đông Hạng Lăng là thế. Ưng Thiệu nói sông Uất Thủy ra từ huyện Quảng Tín chảy về phía đông vào biển. Lời ấy phần trước thì còn được, phần sau không phải vậy" (10)
Ưng Thiệu phản ánh đúng thực tế, sông Uất Thủy đúng là đi qua huyện Quảng Tín thuộc Thương Ngô chảy về phía đông qua quận Nam Hải rồi đổ vào biển. Trong khi "Sơn hải kinh" thì lại sai, bởi vì không có sông nào trong phạm vi địa lý chúng ta đang bàn tới lại có thể chảy về phía tây nam ra biển được. Ý tứ đoạn này thì đúng là sông Uất ra đến biển ở quận Nam Hải rồi thì vẫn chảy về phía tây nam, tức là đi ven biển đến khu vực nay là Việt Nam.
Tuy nhiên Lịch Đạo Nguyên là một chuyên gia về địa lý và lịch sử, trong công trình của mình đã mô tả hơn 1000 con sông từ tận đầu nguồn, lẽ nào lại ngớ ngẩn coi biển là sông, lại lấy cái sai sơ đẳng để phản bác cái đúng như vậy được.
Với việc hiểu rằng các địa danh ở Việt Nam là được bê từ phía Lĩnh Nam xuống để đặt lại thì chúng ta lại có được câu trả lời rõ ràng. Lịch Đạo Nguyên nói về các con sông ở Lưỡng Quảng, các địa danh vốn cũng ở đó. Các địa danh ở Việt Nam là những bằng chứng người ta giả mạo, gây ngộ nhận rằng các con sông và các câu chuyện lịch sử là ở Việt Nam. Vậy thì đoạn Thủy Kinh chú đó không phải do Lịch Đạo Nguyên viết, mà về sau người ta chắp vá thêm để phục vụ cho mục đích hợp lý hóa kiến thức giả.
Vậy nếu Giao Châu thời Hán và Lục triều ở phía Lưỡng Quảng thì xứ giáp giới phía nam là Lâm Ấp có thể chính là Việt Nam ngày nay.
Nước Lâm Ấp
Một ví dụ nữa dưới đây, cho thấy sự bất thường trong văn bản Thủy Kinh chú, lại dẫn đến vấn đề Lâm Ấp, trọng tâm của bài viết này.
Xin đặt hai chuỗi trích Thủy Kinh chú đặt cạnh nhau, liên quan đến thành Khu Túc nước Lâm Ấp. Mỗi chuỗi nằm trên một mạch thông tin, nhưng để cho gọn tôi lược bớt vài đoạn không ảnh hưởng.
1. "Năm đầu niên hiệu Nguyên Gia (năm 424), Thứ sử Giao Châu là Nguyễn Di Chi đánh Lâm Ấp. Dương Mại đi ra ngoài cưới vợ, không có ở trong nước. Phấn uy tướng quân là Nguyễn Khiêm Chi đem 7000 quân trước đánh úp Khu Túc, đã đi qua Tứ Hội, chưa vào Thọ Linh. Ở đấy biển lặng, bờ thẳng, gặp bão nên thua to. [...] Năm Thăng Bình thứ 3 (năm 359), Ôn Phóng Chi đánh Phạm Phật ở Âm Dương Kỳ, chỗ phân giới của Vịnh, đi vào vịnh Tân La đến Yên Hạ, có tên là sông ngách A Bôn Phố. Đi vào vịnh Bành Long, ẩn tránh sóng gió, tức là các vũng biển của nước Lâm Ấp. Năm Nguyên Gia thứ 23 (năm 446), Thứ sử Giao Châu là Đàn Hòa Chi đã phá thành Khu Túc, cờ bay rợp biển, định kéo đến Điển Xung, lên Quỷ Tháp trong vịnh Bành Long, đánh nhau to với quân Lâm Ấp"(11)
Chuỗi thông tin thứ nhất khiến chúng ta nghĩ là thành Khu Túc ở ven biển, từ Giao Châu đến Khu Túc là theo đường biển.
2. "Sông Uất lại chảy về phía nam đi qua sông Tứ Hội Phố, sông này phía trên tiếp với sông Cổ Lang Cứu Phố ở phía tây huyện Lô Dung, quận Nhật Nam [...] Sông chảy vòng vèo về phía đông nam, thông với hồ Lang, hồ nhận nước của khe Kim Sơn Lang Cứu. Nước khe chảy về phía bắc, ở bên trái hội với hai con sông Lô Dung và Thọ Linh. Sông Lô Dung ra từ núi cao ở phía nam thành Khu Túc, chảy về phía tây nam. Ở phía nam núi, dãy núi dài tiếp liền với các ngọn núi ở phía tây như bức màn che tự nhiên. Sông Lô Dung gom nước ở núi Ẩn Sơn, đi vòng quanh phía tây, bao qua phía bắc, rồi chảy về phía đông đi qua phía bắc thành Khu Túc, lại chảy về phía đông hợp với sông Thọ Linh ở bên phải. Núi Ẩn Sơn đi vòng phía đông đi qua phía nam thành Khu Túc cũ."(12). "Lâm Ấp ký nói thành ấy đóng giữa hai con sông, ba phía gần núi, phía nam và phía bắc trông xuống sông. Phía đông và phía tây có khe suối chảy tụ lại ở dưới chân thành" (13). Ngoài ra một chi tiết khác còn cho biết khi Đàn Hòa Chi tấn công thành Khu Túc: "Năm thứ 23, dương cờ theo sông ngách Tứ Hội Phố, vào Lang Hồ, đóng quân ở Khu Túc, tiến sát vây thành."
Chuỗi thông tin thứ hai miêu tả khá chi tiết vị trí của thành Khu Túc, nằm khoảng giữa con sông chảy quanh theo một vòng cung, cạnh thành có một cái hồ, hồ có suối thông lên phía bắc, ba phía thành có núi.
Tuy nhiên không thể có một khu vực ven biển mà lại có thể có một con sông chảy vòng ôm lấy nó và chừa hướng còn lại cho biển được cả. Vậy thông tin ở hai chuỗi này mâu thuẫn với nhau.
Chúng ta hãy thử kiểm nghiệm chuỗi thông tin số 2, bởi vì một con sông có dòng chảy từ đông sang tây rồi vòng lên bắc rồi lại vòng sang đông như con sông Lô Dung thì khá là đặc biệt, nếu có thì phải tìm thấy bằng công cụ Google earth. Khu vực Việt Nam rõ ràng không có. Mặt khác, sông này được mô tả trong hệ thống sông Uất Thủy, vậy chúng ta hãy tìm kiếm ở phía nam Quảng Tây.
Con sông Ming Jiang được tìm thấy phù hợp với miêu tả về sông Lô Dung. Con sông này là một nhánh chính tạo nên sông Tả Giang, nhánh kia là sông Lijiang, hợp lưu của sông Bằng và sông Kỳ Cùng.
Sông Tả Giang đi qua phía bắc một cái hồ khá dài, là Shuikou Lake. Có suối chảy từ phía nam vào hồ, rồi từ hồ lại có suối theo hướng bắc thông vào sông Tả Giang. Bên cạnh hồ là thành phố Sùng Tả, ba phía có núi. Phía nam và phía bắc thì chính là con sông Lô Dung (Ming Jiang) và phần hợp lưu vòng qua như miêu tả ở trên.
Rõ ràng không thể có một sự trùng hợp ngẫu nhiên như vậy được. Vậy chuỗi thông tin thứ hai mô tả dựa trên thực tế, thành Khu Túc nằm ngay trên địa bàn nay là thành phố Sùng Tả. Lang Hồ là Shuikou Lake. Cổ Lang Cứu Phố là sông Mingjiang và cả đoạn sau khi hợp lưu với Lijiang, tức là Mingjiang là sông Lô Dung, Lijiang là sôngThọ Linh. Chúng ta cũng có thể nhận ra rằng núi Ẩn Sơn là dãy Thập Vạn Đại Sơn.
Vị trí này nằm cạnh trục thông thương từ xưa đến nay giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Lịch Đạo Nguyên chép là thành Khu Túc xưa, có nghĩa là thời điểm đầu thế kỷ 6 thành đã về tay Trung Quốc và họ đã đổi sang tên khác.
Như vậy chuỗi thông tin thứ nhất là thông tin giả, đánh lạc hướng suy đoán về vị trí thành Khu Túc, do đó là vị trí nước Lâm Ấp. Người ta tìm vị trí Khu Túc ở gần bờ biển Trung Bộ Việt Nam. Tất nhiên là không thể tìm thấy vị trí thích hợp.
Bây giờ chúng ta khai thác thêm một số thông tin về Lâm Ấp.
Thủy Kinh chú chép vài đoạn về nước Lâm Ấp như sau: ""Lâm Ấp ký" nói: sang đò ở Tỉ Cảnh đi đến huyện Chu Ngô, sông ngách huyện Chu Ngô là biên giới ngày nay. Ở phía nam huyện Chu Ngô có người Văn Lang [...]. Phía nam huyện có suối Văn Lang cứu dòng dưới chảy thông. "Tấn Thư địa đạo chí" nói: Huyện Chu Ngô thuộc quận Nhật Nam, cách quận 200 dặm. Thời nhà Hán, dân huyện này không chịu nổi sự trưng thu thuế má của quan trưởng lại Nhị thiên thạch, dẫn Khuất Đô Kiền ra lập nước. "Lâm Ấp ký" nói: Khuất Đô Kiền là dân Di vậy. Sông ngách Chu Ngô ở trong thông với hồ Vô Lao. Suối Vô Lao Cứu thông với sông ngách Thọ Linh" (14)
"Nước ấy dựng nước bắt đầu từ cuối thời Hán trong cuộc nổi loạn thời Sơ Bình, con người có lòng dạ khác, viên công tào huyện Tượng Lâm họ Khu, có con tên là Liên, đánh huyện ấy giết quan huyện lệnh, tự xưng là vua. Gặp buổi loạn ly, nước Lâm Ấp được thành lập, sau cứ nối đời, truyền ngôi cho con cháu (15)
Như vậy là trong cùng một sách có đến hai thuyết khác nhau về việc lập nước Lâm Ấp. Thuyết thứ nhất là dân chúng ở huyện Chu Ngô thuộc quận Nhật Nam (ở đây có thể hiểu là dân lập ra nước Lâm Ấp) không chấp nhận chế độ thuế má nặng nề, nên đã tôn một người bản địa lên làm chủ, lập nước. Biên giới ở sông ngách huyện Chu Ngô. Phía nam Chu Ngô, tức là phía Lâm Ấp, có người Văn Lang, có suối Văn Lang. Thuyết thứ hai có ghi niên đại, Sơ Bình là khoảng thời gian 192 - 195. Có nhân vật họ Khu, có con tên là Liên, thuộc giới cai trị nhà Hán đã lợi dụng thời cơ để phản bội và lập nên nước Lâm Ấp. Địa bàn Lâm Ấp vốn là Tượng Lâm, chứ không phải Chu Ngô như ở thuyết thứ nhất. Ngày nay người viết sử đều theo thuyết này, bỏ qua thuyết thứ nhất. Thế nhưng thuyết thứ hai lại có nhiều chi tiết không đúng với sử chép về thời nhà Hán.
"Hậu Hán thư", quyển 86, phần Nam man truyện cho biết năm Vĩnh Hòa thứ hai (năm 137) người man di ngoài biên Nhật Nam, Tượng Lâm là bọn Khu Liên tấn công huyện Tượng Lâm, chiếm cứ Nhật Nam và Cửu Chân. Nhà Hán phong Chúc Lương làm Cửu Chân thái thú, Trương Kiều làm Thứ sử Giao Chỉ, sai đến nơi phủ dụ, lại yên. Các năm 145, 156, có các cuộc nổi loạn, nhà Hán đều phủ dụ được, năm 173 có nước ngoài biên giới của Nhật Nam đến cống, năm 178 Thứ sử Chu Tuấn lại phá được một cuộc nổi loạn lớn. Bản thân Khu Liên khó có thể sống đến năm Sơ Bình (192-195) để lập nước Lâm Ấp. Thế nhưng theo Thủy Kinh chú thì bố của ông Khu Liên này mới lập nước Lâm Ấp. Điều này thì lại càng không thể xảy ra. Sử sách đã biến Khu Liên từ người ngoại biên, đánh chiếm Nhật Nam rồi bị dẹp yên, thành người của giới cai trị nhà Hán ở Nhật Nam, tráo trở phản bội, lập nên một nhà nước Lâm Ấp ly khai.
Thuyết Lâm Ấp vốn là Tượng Lâm, do Khu Liên phản bội mà lập nên, thường được các bộ sử Trung Quốc nhắc lại, và hầu như đều gắn với câu chuyện Mã Viện dựng cột đồng. Đó là một cách để khẳng định cương giới Trung Quốc thời Hán đã đến tận nam trung bộ Việt Nam ngày nay. Mặc dù nội dung có vấn đề, nhưng rất phù hợp với tinh thần tạo chứng cứ để tuyên bố chủ quyền lãnh thổ từ xưa đến nay của nhà cầm quyền Trung Quốc.
Không thể một người viết lại đưa ra hai thuyết cho một vấn đề mà không có nghị luận gì. Có thể khẳng định thuyết thứ hai không do Lịch Đạo Nguyên viết, mà do người sau thêm vào, cài cắm các chi tiết với động cơ chính trị rõ ràng.
Chúng ta tạm ghi nhận vài điểm. Theo sách Thái Bình hoàn vũ ký, của Nhạc Sử, khi Mã Viện dẹp xong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, năm 40 đến 43 sau Công nguyên, thì tiến đánh nước Lâm Ấp, cách quận Nhật Nam 400 dặm. Bởi vì trước năm 40 thì người Hán vẫn phải duy trì chế độ Lạc tướng và chưa áp đặt được luật lệ với dân Lạc Việt, có nghĩa là người Hán chưa có khả năng cai trị trực tiếp, nên ghi chép của Nhạc Sử cho rằng họ bình định xong ở đó rồi mới vươn đến Lâm Ấp là đáng tin. Tức là Lâm Ấp chỉ bị đô hộ từ năm 43 trở về sau. Lấy thời điểm Lâm Ấp độc lập là cuối niên hiệu Sơ Bình, tức là năm 192, thì khoảng thời gian cai trị của nhà Hán là từ 43-192, tức là 150 năm. Địa bàn Lâm Ấp có một tộc người tên là Văn Lang, có khe nước tên là Văn Lang cứu. Trong sách vở xưa thì khái niệm khe cũng có thể chỉ một con sông.
Thủy Kinh chú chép "Phía tây, nước Lâm Ấp cách Quảng Châu 2500 dặm"(16)
""Lâm Ấp ký" nói rằng xứ này ở tận ngoài biên giới xa xôi của biển xanh rộng lớn, ở nơi cực xa ngoài vùng lưu phục, đất này ở ven biển xanh, tàu các nước cập bến khi đi qua" (17)
Từ Sùng Tả hay sông Ming Jiang đi xuống phía nam thì bờ biển chính là vùng đông bắc Việt Nam. Xét về đường thuyền đi ven biển thì 2500 dặm, hơn 1000 km, là tương đối phù hợp tính từ Quảng Châu đến vùng biển miền bắc Việt Nam.
Vùng bờ biển Đông Bắc Bộ nằm trên tuyến đường hàng hải giữa khu vực phía đông châu Á và thế giới bên ngoài. Các cửa sông ở đây còn là cửa ngõ miền bắc Việt Nam và nội địa phía nam Trung Quốc. Các lợi thế tự nhiên rõ ràng biến nơi này thành một nút đặc biệt quan trọng trên bản đồ giao thương thế giới thời cổ, giai đoạn con người không đủ phương tiện để tạo nhiều lộ trình như thời sau.
Tấn thư, quyển 97 – Tứ di chép bối cảnh Lâm Ấp giết viên Thái thú Nhật Nam là Hạ Hầu Lãm: "Trước đó, các nước ngoài cõi từng đem vật báu theo đường biển đến buôn bán, mà các Thứ sử Giao Châu, Thái thú Nhật Nam nhiều kẻ tham lợi, bắt nạt xâm chiếm họ, mười phần chỉ trả cho hai, ba. Đến đời Thứ sử Khương Tráng, sai Hàn Tập lĩnh Nhật Nam Thái thú. Tập định giá hàng hóa bớt hơn một nửa"(18). Khi Tập chết, triều đình Tấn thay bằng Tạ Trạc, rồi tới Hạ Hầu Lãm. Vẫn hà khắc như thế. Bởi vậy Lâm Ấp liên kết các nước, tập trung quân tấn công chiếm cứ Nhật Nam, giết Hạ Hầu Lãm lấy xác tế trời.
Ghi chép này phù hợp với thực tế đã nói ở trên, về con đường giao thương từ biển vào nội địa Trung Quốc, mà Nhật Nam án ngữ cửa ngõ. Theo đó thì Lâm Ấp có quan hệ giao thương đối với các bộ lạc ở phía tây nam Trung Quốc từ trước khi người Hán tiến xuống. Sau khi kiểm soát toàn bộ Lĩnh Nam, phía Trung Quốc thường tận dụng sức mạnh quân sự và lợi thế thị trường để bắt chẹt và chiếm đoạt, phía Lâm Ấp mất dần quyền lợi. Có thể nói mâu thuẫn về lợi ích kinh tế là lý do chính khiến hai bên thường có chiến tranh.
Sử Trung Quốc ghi nhận rất nhiều cuộc chiến. Dù viết thế nào thì thực tế là họ không giải quyết được vấn đề Lâm Ấp, cho đến cuộc chiến của Lưu Phương dưới thời nhà Tùy. Viên tướng dày dạn kinh nghiệm chiến đấu với người Đột Quyết, được phái xuống Giao Châu để dẹp Lý Phật Tử. Có thể là nhân dịp, cũng có thể đó chỉ là một kế hoạch nghi binh, bất thần tấn công Lâm Ấp.
Theo Tùy thư, quyển 82 - Nam man truyện: "Bấy giờ thiên hạ vô sự, quần thần nói Lâm Ấp có nhiều thứ kỳ bảo. Cuối niên hiệu Nhân Thọ, Hoàng thượng sai Phương làm Hoan Châu đạo hành quân tổng quản, dẫn Khâm Châu Thứ sử Ninh Trường Chân, Hoan Châu Thứ sử Lý Vựng, Khai phủ Tần Hùng đem quân bộ kỵ hơn vạn người cùng vài ngàn người phạm tội đến đánh. Vua nước ấy là Phạn Chí dẫn quân cưỡi trên voi lớn ra đánh, quân của Phương bất lợi. Vì vậy Phương đào nhiều hầm nhỏ, lấy cỏ che lên trên, rồi cho quân khiêu chiến. Phạn Chí đem hết quân ra trận, Phương cùng giao đấu rồi giả thua. Phạn Chí đuổi theo, đến chỗ có hầm, quân phần đa bị rơi xuống hầm, tự hoảng sợ với nhau, quân bèn rối loạn. Phương thả quân ra đánh, đại phá được. Đánh nhau nhiều phen, Phạn Chí bèn bại, phải bỏ thành chạy trốn. Phương vào đô thành, thu lấy mười tám cái thần chủ trong miếu, tất cả đều bằng vàng, như vậy là đã được nước mười tám đời rồi vậy. Phương rút quân về, Phạn Chí quay lại đất cũ, sai sứ sang tạ tội, vì vậy lại triều cống không bỏ" (19)
Tùy thư, quyển 53 - Lưu Phương truyện cũng cho biết sự chuẩn bị là từ thời Nhân Thọ (kết thúc năm 604), nhưng thời điểm tấn công là đầu năm Đại Nghiệp (năm 605). Không có chi tiết làm bẫy voi, mà là lấy nỏ bắn voi bị thương, voi chạy ngược về khiến quân Lâm Ấp thua trận. Phương đi qua cột đồng Mã Viện, tiến xuống phía nam tám ngày, thì đến kinh đô Lâm Ấp. Vua Lâm Ấp là Phạn Chí chạy ra biển. Phương thu lấy tượng vàng cùng thần chủ trong miếu, ô nhục cung thất, khắc đá ghi công rồi về. Sĩ tốt bị thũng chân mười phần chết mất bốn, năm, Phương cũng mắc bệnh mà chết. Vua Tùy hạ chiếu rằng: "Phương nghiêm tuân sách lược miếu đường, kính cẩn thi hành thảo phạt. Uống băng dấn thân, coi hiểm như thường. Phá địch thẳng tiến, xuất kỳ bất ý, kình nghê diệt sạch, sào huyệt lấp bằng. Chẳng cần nhọc thêm, đã yên hải ngoại. Đem thân vì việc nước, công trạng thực đáng khen. Nay ban tặng là: Thượng trụ quốc, Lư quốc công" (20)
Chúng ta thử xem xét vài vấn đề. Nhà Tùy có thực sự rảnh đến mức gọi là thiên hạ vô sự không? Lý do đánh là để thu lấy của cải có hợp lý không? Đánh được rồi sao không chiếm luôn lãnh thổ?
Sử sách cho thấy nhà Tùy là một triều đại có rất nhiều cải cách trong thời gian tồn tại rất ngắn của mình. Họ quá bận rộn nên không thể nói là đi đánh bên ngoài vì rảnh. Lý do đánh để thu của cải cũng không hợp lý, vì làm sao biết trước là đối phương không thể giấu được tài sản quý giá, tài sản thu về có đáng bù tổn thất không. Về lãnh thổ, nếu cho rằng Tùy Dạng Đế không có tham vọng lãnh thổ thì hoàn toàn sai lầm. Chính việc huy động quá sức trong nước để chiếm bằng được xứ Cao Ly là một nguyên nhân khiến nhà Tùy sụp đổ. Huống chi vị trí đặc biệt đắc địa như vậy mà lại bỏ. Ngoài ra, lời chiếu "chẳng cần nhọc thêm, đã yên hải ngoại" lại không hề thích hợp nếu vấn đề Lâm Ấp đã cơ bản được giải quyết.
Tân Đường thư, bộ sử do nhóm Âu Dương Tu soạn vào đầu thời nhà Tống, nhà Tống của họ Triệu sau nhà Đường, quyển 222 Hạ - Nam man (hạ), chép về nước Hoàn Vương: "Hoàn Vương, vốn là Lâm Ấp vậy. Cũng gọi là Chiêm Bất Lao, lại gọi là Chiêm Bà. Cách Giao Châu ba ngàn dặm đường đi biển [...] Niên hiệu Nhân Thọ thời Tùy, sai tướng quân Lưu Phương đến đánh, vua nước ấy là Phạm Phạn Chí trốn chạy, (nhà Tùy) lấy đất ấy chia làm ba quận, đặt quan trấn giữ. Vì đường sá cách trở khó qua lại, nên Phạn Chí lại tụ tập dư chúng, dựng thành ấp khác”(21)
Theo thông tin này thì đúng là nhà Tùy chiếm đất Lâm Ấp và lập ba quận. Vùng đất đó phải là cực nam lãnh thổ của họ, đó chính là An Nam hay Giao Châu thời Đường.
Lâm Ấp và Phù Nam là hai quốc gia phủ hết vùng bán đảo Đông Dương. Theo Tấn thư , phần Lâm Ấp, thì đến đầu thế kỷ 4 vua Lâm Ấp là Phạm Văn đã kiêm tính được các nước xung quanh là Đại Kỳ Giới, Tiểu Kỳ Giới, Thức Bộc, Từ Lang, Khuất Đô, Càn Lỗ, Phù Đan, nên rất có thể địa bàn Lâm Ấp không chỉ giới hạn trong khu vực gọi là Văn hóa Đông Sơn, mà có thể phủ lên cả vùng Văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam, cũng như sang vùng núi phía tây. Việc đã tồn tại khá nhiều quốc gia nhỏ trong khu vực cũng phù hợp với đặc điểm địa hình có nhiều chia cắt dọc theo bờ biển Việt Nam. Ở di chỉ khảo cổ Bãi Cọi, gần cửa sông Cả, người ta đã phát hiện chứng cứ văn hóa Đông Sơn phủ lên cơ tầng Sa Huỳnh vào thời đầu Công nguyên. Như vậy, có thể Tân Đường thư đã chép đúng Hoàn Vương vốn là Lâm Ấp, tuy nhiên đó chỉ là phần Lâm Ấp còn lại mà thôi. (Vấn đề này đã được giải quyết qua bài viết Lâm Ấp – Hoàn Vương – Chiêm Thành và những khuất khúc của lịch sử Việt Nam).
Khi hiểu lịch sử giai đoạn này, chúng ta có thể giải thích được việc phân chia giữa người Việt và người Mường, được coi là vốn cùng một gốc, mà theo các bằng chứng về ngôn ngữ học thì quá trình chia tách bắt đầu từ khoảng thế kỷ 7-8. Người Mường vốn là người Kinh ở đồng bằng di cư lên miền trung du hoặc các thung lũng, sau đó có sự gia nhập của những người Kinh chống lại chế độ nhà Tùy nhà Đường. Cộng đồng này ít chịu sự kiểm soát và cải biến của nhà nước cai trị như cộng đồng ở đồng bằng, trong khi chính họ cũng biến đổi vì môi trường sống đã khác, dần dần sự khác biệt càng lớn, trở thành hai dân tộc khác nhau.
Một vấn đề về ngôn ngữ, hiện khá gây tranh cãi, là phương ngữ vùng Quảng Nam. Hiện nay có hai giả thuyết chính, một là người từ Thanh Nghệ vào, giao thoa và biến đổi thành tiếng Quảng Nam, hai là cư dân ở đây vốn là người Chăm nhưng đã nói tiếng Kinh. Tuy nhiên, cả hai giả thuyết này đều đặt giới hạn trong khoảng thời gian ngoài 500 năm kể từ thời điểm Lê Thánh Tông thâu tóm Chiêm Thành. Tôi cho rằng khoảng thời gian đó là không đủ để hình thành một phương ngữ rất khác biệt như tiếng Quảng. Đặc biệt, khi xem xét lịch sử chữ quốc ngữ thì chúng ta có thể xác định được là ở đầu thế kỷ 17 người xứ Quảng đã nói tiếng Việt. Dựa vào những kết quả trên đây thì chúng ta có thể có một cách giải thích khác. Đó là ngôn ngữ từ phía Bắc Bộ đã thâm nhập xứ Quảng vào thời đại Lâm Ấp, khi vùng này được hợp nhất vào Lâm Ấp vào thế kỷ thứ 4, rồi lại trải qua một qua trình tách nhập trong suốt hơn mười thế kỷ. Hy vọng những nhà ngôn ngữ học thử xem xét theo hướng này.
Kinh đô của Lâm Ấp ở đâu?
Về vị trí kinh thành Điển Xung của nước Lâm Ấp, Thủy kinh chú [bản dịch của Nguyễn Bá Mão, xb 2005, trang 382 đến 386] có chép một số chi tiết như sau:
"Phía tây sông, tức là đô của Lâm Ấp, đóng ở Điển Xung, cách bờ biển 40 dặm […] góc tây nam thành là một dãy dài núi cao, liên tiếp nhau làm thành tấm màn chắn thiên nhiên, mà phía bắc liền với khe suối. Sông Đại Nguyên Hoài ra từ biên giới xa xôi, miền Na Na, có ba lớp bãi dài, núi Ẩn Sơn vòng phía tây, bao phía bắc, quành phía đông. Dãy núi này có suối ở phía nam, sông Tiểu Nguyên Hoài ra từ biên giới miền Tùng Căn, là khe nhỏ chảy từ trên núi Ẩn Sơn, vòng phía nam đi ngoằn ngoèo, ra phía đông hợp với sông Hoài, chảy vào Điển Xung. Thành này phía tây nam giáp núi, phía đông bắc trông xuống sông, lớp lớp ngòi, hào vòng quanh dưới thành. Ở ngoài phía đông nam, vì thành ở cạnh rừng rậm, chiều ngang từ đông sang tây dài, chiều dọc từ nam sang bắc hẹp, mé phía bắc đầu phía tây thì nghoẹo gãy cong vào. Chu vi thành là 8 dặm 100 bộ. […] Cửa tây thẳng đến hào hai lớp, đi quành lên phía bắc là lên núi, phía tây núi là sông Hoài. Cửa nam đi qua hào hai lớp, đối diện với lũy Ôn Công […] Cửa bắc cạnh bờ sông Hoài, đường dứt không thông được […] Phần giống như mặt sau của phía nam gọi là thành ở khu tây, trong thành có núi đá, thuận theo dòng sông Hoài […] Thành ấy phía ngoài thành là rừng cây có gai rậm rạp. các loại cây tạp um tùm, mây gai cuộn, trúc quế xinh, chen nhau mọc ngút trời”.
Ở phần trước, chúng ta đã biết núi Ẩn Sơn chính là dãy Thập Vạn Đại Sơn, chạy từ phía Lạng Sơn làm thành hình vòng cung lên phía Khâm Châu. Như vậy sông Tiểu Nguyên Hoài ở đây chính là sông Thương, nơi bắt nguồn và hướng chảy phù hợp với mô tả. Sông Đại Nguyên Hoài chảy từ biên giới xa, đó chính là nói về sông Đuống. Phần hợp lưu lại chảy vào Điển Xung, nhưng phía tây nam Điển Xung là núi, phía tây núi lại là sông Hoài, chứng tỏ phần gọi là chảy vào Điển Xung chỉ là một phân nhánh. Như vậy các phụ lưu và chi lưu của sông Thái Bình đều được coi là sông Hoài.
Tìm kiếm thực tế về một dãy núi dài ở phía tây sông thì quả có một chuỗi núi từ bờ nam sông Kinh Thầy chỗ đối diện với thị xã Đông Triều qua sông, kéo dài theo hướng đông nam qua thị xã Kinh Môn, ra đến chỗ đối diện thị xã Quảng Yên ở bên kia sông Đá Bạch, đã gần sát cửa Bạch Đằng. Tổng chiều dài khoảng 30km. Đây là chuỗi núi duy nhất ở bờ nam mạch sông Kinh Thầy - Đá Bạch.
Khu vực được khoanh màu đỏ trên hình là phù hợp với mô tả về thành Điển Xung. Bởi những chi tiết như sau:
- Phía tây nam giáp núi, phía đông bắc trông xuống sông. Con sông này có Đường Bờ Sông chạy ngay bên cạnh. Dãy núi này gọi là núi An Phụ
- Phía đông nam là hướng chính từ trong thành đi ra ngoài, chứ không thể là hướng nào khác. Chi tiết này phù hợp với ý “Ở ngoài phía đông nam, vì thành ở cạnh rừng rậm”
- Vì khoảng cách giữa sông và núi khá gần (dưới 800m), nên với chiều dài thành là 8 dặm 100 bộ (khoảng 4km đến 4.5km) thì ắt phải “chiều ngang từ đông sang tây dài, chiều dọc từ nam sang bắc hẹp”.
- Từ phía tây có con đường ngoặt lên phía bắc để lên núi. Đỉnh núi chính là vị trí đền Cao An Phụ trên bản đồ, cao 246m. Phía tây núi là sông, chính là sông Kinh Môn, khoảng cách không tới 3km. Phù hợp với mô tả về cửa tây của thành và ngọn núi.
- Phía nam, trên tuyến đường Kim Xuyên có một con đèo qua núi An Phụ. Đó có thể là lũy Ôn Công. Phù hợp với mô tả về cửa nam của thành.
- Phía bắc cạnh bờ sông. Ra hướng này thì có thể không có đường bộ, mà phải đi thuyền. Phù hợp với mô tả về cửa bắc.
- Phía trong có một quả núi. Phần phía đông bắc của núi có dân cư ở. Khúc này có thể gọi là thuận theo sông Hoài, khoảng cách chỉ hơn 200m. Phù hợp với mô tả.
- Phía ngoài là rừng cây rậm rạp. Điều này đúng luôn.
- Hiện tại khu vực này cách biển khoảng trên 30km. Vào những thế kỷ đầu công nguyên cách biển khoảng ngoài 20km là hợp lý.
Xung quanh điểm này, bán kính chỉ chừng 20km là dày đặc các di chỉ khảo cổ.
Năm 1961 người ta phát hiện ra một số mộ thuyền ở Việt Khê, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng, trong đó có chiếc dài tới 476cm, rộng 77cm, dày 60cm, được làm bằng thân cây khoét rỗng như chiếc thuyền. Hiện được coi là bảo vật quốc gia. Ngôi mộ chứa tới 107 hiện vật thuộc nhiều loại hình, như công cụ lao động và vũ khí chiến đấu, đồ dùng sinh hoạt, nhạc khí..., chủ yếu làm bằng đồng với kỹ thuật khá cao. Niên đại ngôi mộ là trước Công nguyên hàng thế kỷ, cho thấy ở khu vực này đã có một xã hội phát triển rất sớm.
Suốt hàng chục năm gần đây, người ta đã phát hiện ra nhiều ngôi mộ khổng lồ. Một trong số đó đã được đem về phục dựng lại một phần ở Bảo tàng tỉnh Hải Dương. Người trong ảnh là ông Tăng Bá Hoành, nguyên Giám đốc bảo tàng tỉnh. Theo ông Hoành thì đó chưa phải là mộ lớn nhất. Có những ngôi mộ mà người ta tưởng là một quả đồi.
Ngôi mộ cổ được phục hồi một phần, ở Bảo tàng tỉnh Hải Dương
Mộ cổ ở thôn Vũ Xá, Kim Thành, Hải Dương
Đây chỉ có thể là mộ của những nhân vật đặc biệt của một quốc gia, chứ không thể là mộ của thường dân.
Thông tin về các di chỉ trong khu vực này có thể dễ dàng được tìm thấy qua tìm kiếm bằng Google với từ khóa “mộ cổ” kèm theo các từ như: “Kinh Môn”, “Kim Thành”, Việt Khê”, “Mạo Khê”, “Uông Bí”. Khu vực đó phải từng là kinh thành của một quốc gia giàu có, chứ không thể là mộ của những quan lại người Trung Quốc, vốn đa số đều ở thang bậc thấp.
Với những chi tiết phù hợp như thế này thì có thể khẳng định đây chính là kinh thành Điển Xung của nước Lâm Ấp.
Khu vực cụm di chỉ ở vùng Đông Bắc Bộ chính là một trung tâm sớm của người Việt.
Suy nghĩ về việc phục dựng lại tiến trình lịch sử của dân tộc.
Qua những phân tích trên đã bộc lộ những ngộ nhận lịch sử vô cùng lớn. Chúng ta không hề bị đô hộ từ thời Tần Thủy Hoàng, mà thời gian bị đô hộ thực tế chỉ gồm hai giai đoạn rời nhau, từ 43 đến 193 và từ 605 đến 905. Như vậy, không như nhiều nhận định phổ biến, về con số 50 vạn người phạm tội mà Tần Thủy Hoàng đưa xuống Lĩnh Nam cùng với khái niệm 1000 năm đô hộ, khiến chi phối khá mạnh nhận thức chung, cho rằng nguồn gốc người Việt là từ Trung Quốc. Về lãnh thổ, người Trung Quốc chưa hề kiểm soát đến khu vực Nam Trung Bộ nước ta như cách hiểu hiện nay. Cũng không có một nhân vật Khu Liện nào con cháu người Trung Quốc ly khai để lập nước Lâm Ấp ở đó cả. Những vấn đề liên quan đến nguồn gốc và lãnh thổ luôn luôn có độ nhạy cảm, tiềm ẩn nhiều vấn đề, vì vậy cần được hiểu rõ. Dân tộc cần hiểu đúng lịch sử của mình để rút ra những kinh nghiệm chính xác, giúp tự tin để phát triển.
Trên nhiều bộ sử lớn của triều đình Trung Quốc có nhiều chi tiết về con người và xã hội Lâm Ấp.
Tấn thư, quyển 97 – Tứ di, chép: "Tục đất ấy, nhà cửa đều mở hướng bắc" và: "Đất ấy bốn mùa nắng nóng, không có sương tuyết". Lương thư, quyển 54 – Chư di, chép: "Tục nước ấy: Ở nhà sàn, gọi là "ư lan", cửa đều mở quay về hướng bắc ".
Trái với thực tế là nhà cửa ở miền bắc Việt Nam rất ít khi lựa chọn mở cửa về hướng bắc, để tránh gió lạnh mùa đông bắc chứ chẳng tục lệ gì cả.
Tấn thư chép: "Cư tang thì cắt tóc mai đi để thủ hiếu, đốt xác ngoài đồng". Nam Tề thư, quyển 58 – Man, Đông (Di), Nam Di, chép: "Khi cư tang thì cắt tóc, cho là hiếu. Thiêu xác chết giữa đồng gọi là táng". Lương thư chép: "Người chết thì thiêu ngoài đồng, gọi là hỏa táng". Tùy thư, quyển 82 – Nam Man chép: "Vua chết thì bảy ngày thì táng, người làm quan thì ba ngày, còn thứ dân thì một ngày. Đều bỏ xác vào hòm, gõ trống ca múa đưa đi, chở đến bến nước, chất củi mà đốt. Thu lấy những hài cốt còn lại, vua thì bỏ vào hũ vàng thả chìm xuồng biển, người làm quan thì cho vào hũ bằng đồng, bỏ ở cửa biển, còn thứ nhân thì bỏ vào hũ sành, thả xuống sông ".
Số lượng rất lớn những ngôi mộ cổ được tìm thấy chính là bằng chứng bác bỏ táng tục hỏa táng. Ở đây cũng có thể tồn tại một vài khả năng khác, là người ta đã lấy mô tả về kinh thành của một giai đoạn khác, khi kinh đô Lâm Ấp bị đẩy lùi về phía Quảng Nam, để gán cho kinh thành giai đoạn ở phía bắc, hoặc Lâm Ấp có nhiều kinh thành khác nhau. Dù sao thì các chỉ dấu địa lý cho thấy không có địa điểm nào ở phía nam có thể thỏa mãn các mô tả.
Với việc chỉ ra vị trí của Lâm Ấp thì chúng ta có thể thấy rằng những chi tiết trong các bộ sử Trung Quốc là những cái bẫy khiến chúng ta mặc định là Lâm Ấp chỉ ở về phía nam, là nước Chiêm Thành về sau, mà không nghĩ rằng phần phía bắc cũng là Lâm Ấp, mà đó mới là trung tâm.
Mặc dù đã có rất nhiều hồ nghi về vấn đề Lâm Ấp trong giới nghiên cứu lịch sử, bởi cách hiểu nào cũng chứa đầy mâu thuẫn không thể giải quyết. Tuy nhiên, với những kết quả mới, chỉ ra việc gán ghép lịch sử, thì vấn đề này hoàn toàn có thể giải thích thỏa đáng. Bạn đọc có thể xem thêm chi tiết về vấn đề này trong bài viết: Thử xác định vị trí một số quận huyện trên đất Lĩnh Nam thời Hán; Tìm khu vực trống đồng; Tìm kiếm căn nguyên của một số ngộ nhận lịch sử.
Lâm Ấp có lẽ đã chịu ảnh hưởng của nền văn hóa phía tây, từ Ấn Độ, trước khi người Hán tiến xuống phía nam rồi cai trị 150 năm, vì vậy ở đây không hẳn là một xã hội theo Ấn Độ giáo, mà đã có sự giao thoa văn hóa.
Các thông tin trong sử sách Trung Quốc, như đã dẫn ở trên, cho biết rằng triều đại Lâm Ấp của các vị vua mang họ Phạm, vị đầu tiên là Phạm Hùng (nếu gọi theo đúng cách của người Việt thì là vua Hùng). , truyền được 18 đời. Theo chi tiết trong bản tâu của Giao Châu Thứ sử Đào Hoàng gửi Tấn Vũ Đế, vào cuối thế kỷ 3: “Thủ lĩnh người Di là Phạm Hùng, đời nào cũng vào cướp phá, tự xưng làm vương”, thì các đời sau cũng xưng là vua Hùng. Rất có khả năng chữ Phạm ở đây không phải chỉ tộc tính, mà là sự phiên âm từ tiếng Phạn cổ, Phạm hay Phạn (梵) mang nghĩa thuộc về cõi trên. Hùng ( 雄), theo một giả thuyết của Trần Quốc Vượng, có thể là biến âm từ chữ Guru trong tiếng Pali, một nhánh khác của tiếng Phạn, có nghĩa là bậc đạo sư. Nói tóm lại, Phạm Hùng không phải là họ tên theo người Hán mà là phiên âm Hán của nhân vật có thể là thủ lĩnh tối cao, Phạm Hùng nghĩa là Vua Hùng.
Về sách vở của Việt Nam, Tây Hồ chí, viết thời cận đại, có đoạn chép về Hồ Tây cho biết hồ có từ thời Hùng Vương, bấy giờ là một bến nằm giáp sông Hồng, thuộc động Lâm Ấp, nên được gọi là bến Lâm Ấp. Theo đó thì khái niệm Lâm Ấp có tồn tại thời Hùng Vương. Khi mà sử sách chính thống đều theo người Trung Quốc chỉ Lâm Ấp về phía miền trung Việt Nam, thì chi tiết này hẳn đã được lưu giữ trong ký ức dân gian hoặc ghi chép phi chính thống, chứ không thể tự nhiên người ta ghép vào được như thế.
Nếu chúng ta đã có phương hướng thì rất hy vọng có thể sưu tầm, chắt lọc được từ những chất liệu lưu giữ trong đời sống dân gian, những mảnh ký ức thực, nằm lẫn lộn với những thông tin giả, để góp phần phục nguyên hình ảnh của giai đoạn Văn Lang và rộng hơn nữa là tiến trình của dân tộc.
Bài viết được công bố lần đầu vào ngày 06.02.2022. Bản này có sửa lại vài chỗ và rút gọn lại. Ngày 01.08.2022.