Search This Blog

Tuesday, September 5, 2023

Ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ đến khu vực Viễn Đông xét từ phương diện ngôn ngữ

  

Cho đến nay, người ta đã chứng minh rằng tổ tiên của cư dân Đông Á là những người di cư từ phía tây sang, theo nhiều đợt khác nhau, mà một phần đi qua vùng tiểu lục địa Ấn Độ. Do vậy, ảnh hưởng từ nền văn minh Ấn Độ đến phía đông châu Á là điều hiển nhiên. Thế nhưng mức độ ảnh hưởng như thế nào, đặc biệt là đối với khu vực Trung Quốc và phía bắc Việt Nam vẫn còn là một đề tài lớn cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu.

Bài viết này tập trung chủ yếu vào khía cạnh ngôn ngữ.

Trước hết, xin so sánh một số từ trong ngôn ngữ Hindi, ngôn ngữ chính ở Ấn Độ, và tiếng Phổ thông Trung Quốc:

नर nar (nam giới) 男 nán
माँ maan, मा ma (mẹ) 妈Mā
मौ mau (mẹ) 母 Mǔ
मौसी mausee (dì) 姨 yí
यह yah (nó) 者 zhě (anh ta, nó, nọ)
मुखिया mukhiya (kẻ đứng đầu) 牧 mù (kẻ thống trị, chăn dắt)
नौकरानी naukaraanee (người giúp việc) 奴 nú (người hầu, nô lệ)
घर ghar (nhà) 家jiā
गन्ना ganna (mía, đường mía) 甘gān (ngọt)
लीची leechee (quả vải) 荔枝lìzhī
फेफड़ा phephada (phổi) 肺 fèi
पशु pashu (súc vật) 畜 chù, xù
मुर्गी murgee (con gà mái) 雞 jī (con gà)
शेर sher (con sư tử) 狮 shi
साँप saanp (con rắn) 蛇 shé
जल jal (nước) 江jiāng (sông lớn)
धारा dhaara (suối) 河hé (sông)
फिस phis, फ्यय phyay (phí, lệ phí) Phí (費 bì, fèi)
जालसाजी jaalasaajee (giả mạo); जालसाज jaalasaaj
(người giả mạo); जालसा jaalasa (cạm bẫy) 假 jiǎ (dối trá)
दुष्ट dusht (độc ác) 毒Dú (độc hại, độc ác)
संघ sangh (liên hợp) 双 suang (cặp, cùng nhau)
द da (các) 多 duō (nhiều)
हुआ hua (đã xảy ra 脚Jiǎo (chân)
बांग baang (bùng nổ) 砰Pēng (tiếng nổ, tiếng động lớn)
शुरू shuroo (bắt đầu) 初 chu
हो ho (đúng) 乎 hū = có đúng không?
जैसा jaisa (bằng, như) 偕jiē (đều, cùng)
दंड dand (một sự trừng phạt) 掸 Dǎn (đánh)
भया bhaya (sợ hãi) 害怕Hàipà
माल maal (các mặt hàng) 賣 mài (bán); 买 mǎi (mua)
लहर lahar (sóng) 浪làng, láng
बाँट baant (chia sẻ) 頒 bān (ban phát, chia cho)
बंध bandh (liên kết) 班 bān (toán, tốp, đoàn, lớp…); 邦 bāng (bang, nước);帮bāng (liên kết, băng đảng)
नौस naus (buồn nôn) 瑙斯 Nǎo sī
जाँच करना jaanch karana (kiểm tra) 查看Chákàn
लहंगा lahanga (lò nung) 炉火 Lú huǒ (ngọn lửa); 炉 lú (cái lò); 火 huō (lửa)
बड़ा bada (to lớn) 霸 bà ( trùm, lớn); 大 dà (lớn)

Bảng so sánh không chỉ cho thấy tính chất đồng nguyên của các từ ngữ hai bên mà còn cho thấy dấu hiệu vay mượn trong ngôn ngữ Trung Quốc từ hệ ngôn ngữ Ấn Độ, những khái niệm rất cổ xưa.

Nhận định này vừa phù hợp với sơ đồ di cư của loài người, như đã đề cập, lại được hậu thuẫn bởi một số chi tiết khác.

Phật Thích Ca, một nhân vật được xếp vào hàng có ảnh hưởng nhất về tư tưởng ở Trung Quốc, là một người Ấn Độ. Bồ-đề-đạt-ma (~470 – 543), một người Ấn Độ khác, cũng để lại những di sản tinh thần lớn ở Trung Quốc cho đến nay. Những điều này không thể không phản ánh vị thế lớn của nền văn minh Ấn Độ trong nhận thức của người Trung Quốc và một truyền thống tiếp thu từ nền văn minh đó.

Sách Trúc thư kỷ niên, được biên soạn trong một thời gian dài, cho đến thế kỷ 3 TCN, cho biết vào năm thứ 13 đời Chu Ẩn Vương (tức là năm 302 TCN) thì Hàm Đan (tức là nước Triệu) lệnh cho các Tướng quân, Đại phu cùng với con đích và thuộc cấp của họ đều phải mặc Hồ phục (1). Hồ là một khái niệm người Trung Quốc chỉ một thứ người ngoại tộc. Người Ấn cũng được gọi là Hồ nhân, mặc dù không hẳn Hồ đều là Ấn. Có lẽ khái niệm người Hồ là chỉ chung những nhóm mang đặc điểm Ấn – Âu bao gồm các tầng lớp trên của xã hội Ấn Độ đương thời. Người Ấn từng có một đế chế rộng lớn dưới thời A Dục Vương (Ashoka) thế kỷ 3 TCN, quy mô lớn hơn nhiều so với toàn bộ lãnh thổ bảy nước đương thời ở Trung Quốc, đó cũng là một bằng chứng cho thấy sự phát triển sớm của xã hội Ấn Độ cổ đại, trong mối so sánh với Trung Quốc.


Các trường hợp tiếng Hán vừa được liệt kê là thuộc ngôn ngữ Hoa Bắc (mặc dù ngày nay không chỉ được nói ở Hoa Bắc). Bây giờ xin đề cập đến hai nhóm ngôn ngữ phía nam Trung Quốc là tiếng Mân (trung tâm là vùng Phúc Kiến) và tiếng Quảng Đông.

Ba trường hợp sau đây trong tiếng Mân, ghi theo cách phát âm, nghĩa tiếng Việt được để trong dấu ngoặc, là:

1. dzhən (ruộng lúa).
Chữ Hán chỉ ruộng lúa là 田, bính âm là tián. Trường hợp này âm Hoa Bắc khác hẳn âm Mân nên khó có thể cho rằng từ dzhən có nguồn gốc phía bắc, ngoài ra thì phía bắc không có ruộng lúa. Hiện các học giả vẫn chưa giải quyết được vấn đề nguồn gốc của từ này (theo https://vi.wikipedia.org/wiki/Tiếng_Mân).
Khái niệm “ruộng lúa” trong tiếng Hindi được gọi là “dhaan ka khet” – धान का खेत. Trong đó dhaan = cơm, ka khet = cánh đồng. Trong tiếng Bangla, cũng được nói ở vùng tiểu lục địa Ấn Độ thì Dhāna (ধান) có nghĩa là thóc, Dhāna kṣēta (ধান ক্ষেত) có nghĩa là ruộng lúa. Hai tên gọi này rõ ràng cùng một gốc.
Có thể thấy khái niệm ruộng lúa được hình thành như sau: Đầu tiên là người ta có Thóc hay Cơm (dhaan) từ việc thu nhặt lúa hoang, sau đó thu thập và trồng trên những cánh đồng, vì thế sinh khái niệm “dhaan ka khet”, tức là “cánh đồng của cơm” hay “đồng lúa”.

Đến đây thì có thể thấy từ “dzhən” của tiếng Mân chính là từ vay mượn và biến hóa từ nền văn minh Hindi. Điều này cũng ủng hộ quan điểm về nguồn gốc sông Hằng của cây lúa thuần hóa, trong số các quan điểm khác hiện chưa ngã ngũ.

2. Chéo (chim)

Chữ Hán là 鳥, thường phát âm là niăo hoặc dăo. Trường hợp này âm Hoa Bắc cũng khác hẳn âm Mân. Trong khi đó từ Chéo lại có dấn hiệu gần với là từ chidiya चिड़िया trong tiếng Hindi, và từ Chim trong tiếng Việt. Rất có thể các từ Chéo (tiếng Mân) và Chim (tiếng Việt) đều mượn từ ngôn ngữ Hindi, không đi qua trung gian Hoa Bắc.


3. Cu-ê hoặc Ku-ê (gà),

Chữ Hán là 鸡, âm Hoa Bắc là jī. Chữ này được ghi âm Quảng Đông theo phiên âm quốc tế là gai, đọc giống với kai.
Các âm chỉ khái niệm con gà của tiếng Mân và tiếng Quảng Đông có thể xuất phát từ cùng một nguồn và không có dấu hiệu qua trung gian Hoa Bắc.

Từ chỉ “gà” trong một số ngôn ngữ ở Nam Á, bao gồm tiếng Tamil và Malayyalam ở Ấn Độ, như sau:

Tiếng Hindi: मुर्गा murga (con gà nói chung), मुर्गी murgee (con gà mái), मुर्गियाँ murgiyaan
(những con gà mái)
– Tiếng Tamil: கோழி Kōḻi (số ít), கோழிகள் Kōḻikaḷ (số nhiều)
– Tiếng Malayalam: കോഴി caaazhi (số ít) / കോഴികൾ kozhikal (số nhiều)
– Tiếng Lào: kai
– Tiếng Miến Điện: kyaatsarr
– Tiếng Thái: kị̀ (thực tế âm nghe ra là kài)
– Tiếng Mường: Ka
– Tiếng Việt: Gà; Ga (tiếng vùng khu 4); một số nơi phát âm là Gè; Kê (tên mà người Việt gán với chữ 雞 của người Hán). Ngoài ra còn có từ “gà mái ghẹ” để chỉ con gà mái con gà mái non. Trong tiếng Hindi còn có từ ande (अंडे) chỉ những quả trứng, mà có lẽ đó là nguồn gốc của từ Đẻ trong tiếng Việt.


Bây giờ chúng ta hãy xem xét một số âm Hán ở Quảng Đông trong sự đối chiếu với các từ Hindi có liên quan. Sau mỗi chữ Hán sẽ là phiên âm Bắc Kinh/phiên âm Quảng Đông.


मौ mau (mẹ) – 母 mǔ/mou
सच sach, सत् sat (sự thật) – 实 shí/sat
मुखिया mukhiya (kẻ đứng đầu) – 牧 mù/muk (kẻ chăn, kẻ đứng đầu)
मुर्गा murga; मुर्गी murgee (gà) – 雞 jī/gai
सैनिक sainik (lính) – 使 shǐ/sai (sai khiến)
पाप paap (tội) – 法fǎ/faat (phép tắc, pháp luật, sự trừng phạt)
फन phan (vui vẻ) – 奋 fèn/fan (phấn khởi)
थप thap (hơn) – 拓 tà/taap (khai triển, mở rộng)
या ya (hoặc) – 也 yě/jaa cũng, vậy
दक्ष daksh (có hiệu quả), दक् dak (kỹ năng) – 得dē /dak (được, hiệu quả)
दुष्ट dusht (độc ác) 毒 dú/duk (độc hại, độc ác)
मोटा mota (dày, mập) 漠 mò/mok (to lớn)
कंपन kampan (rung động), कामुक kaamuk (gợi cảm) – 感 gan/gam (cảm động)
कब् kab (khi) – 急 jí /gap (nhanh, gấp rút)
नकाब nakaab (mặt nạ) – 匿 nì/nik
नौस naus (buồn nôn) – 瑙斯 Nǎo sī/nou si
सुख sukh (niềm hạnh phúc) – 福 Fú/fuk (Sung sướng)
की kee (của, thuộc về) – 圻 qí/kei (biên, cõi)

Bảng đối chiếu này cho thấy dấu vết của ngôn ngữ Hindi trong tiếng Quảng Đông.

Nội dung vừa được trình bày cũng cho thấy sự vay mượn của ngôn ngữ khu vực Đông Nam Á từ Ấn Độ.

Tóm lại, chúng ta có thể hình dung như sau: Ban đầu tiếng Hindi có ảnh hưởng khắp cả nam bắc Trung Hoa. Sự vay mượn các khái niệm rất cơ bản cho thấy ảnh hưởng này khá sớm và sâu sắc. Sau đó ngôn ngữ phía bắc lại dần lan xuống phía nam, che lấp dần ảnh hưởng trực tiếp của ngôn ngữ Hindi ở phía này.

Sử sách Trung Quốc chép việc chinh phục vùng Lĩnh Nam một cách khá mờ nhạt, không hợp lý đối với miền lưu vực Châu Giang trên thực tế khá lớn và giàu nguồn lực.

Theo nội dung tấm bản đồ của Pomponius, một nhà địa lý La Mã, soạn vào năm 43AD thì lãnh thổ Trung Quốc không chiếm nhiều về phía nam như những mô tả khác. Dưới đây là nội dung tấm bản đồ Pompnius được phục dựng bởi Konrad Miller, một nhà sử học và chuyên gia bản đồ người Đức, năm 1898:

 
Bản đồ Pompnius được phục dựng bởi Konrad Miller. 
Nguồn: https://digitalmapsoftheancientworld.com/ancient-maps/pomponius-melas-map/
 
Toàn bộ khu vực mà ngày nay chúng ta cho là Đông Nam Á, và có lẽ cả vùng phía nam Trung Quốc đều thuộc về Ấn Độ. Tất nhiên chúng ta có thể cho rằng mô tả này không đúng với thực tế năm 43, Pomponius không thể có các tài liệu cập nhật như ngày nay mà phải dựa vào những nguồn có thể đã rất lạc hậu. Ngoài ra thì sự ghi nhận của các thương nhân về lãnh thổ có thể gần với đặc tính của dân cư, của ảnh hưởng mềm nói chung, chứ không trùng hoàn toàn với ghi nhận quan phương trên giấy tờ của sử sách ở Trung Quốc.

Theo sử sách Trung Quốc thì ở thế kỷ 5 TCN nước Việt của Câu Tiễn chỉ đến đất Cối Kê (nay là thành phố Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang) là hết. Vậy thì phần phía nam là họ mở rộng dần về sau. Trung tâm đất Mân là Phúc Châu lệch về phía nam so với vị trí được xác định là Cối Kê xưa khoảng 450km theo đường thẳng, bao phủ bởi vùng núi cao chạy sát tận bờ biển. Theo Sử ký của Tư Mã Thiên, quyển Đông Việt liệt truyện, đến năm Kiến Nguyên thứ 6 (135TCN) các đại thần nhà Hán còn tranh luận xem có nên lấy đất Việt cho vào nội thuộc hay không. Rồi nhà Hán chiếm dần, đến năm Nguyên Phong thứ nhất (110TCN) mới chiếm hẳn Mân Việt.

Điều này cho thấy việc xác định vị trí đường ranh giới như trên bản đồ chưa hẳn đã là vô lý. Có lẽ Pomponius dựa trên mô tả đoạn hành trình đi từ đảo Borneo (còn gọi là Kalimantan) qua đảo Luzon đến đảo Đài Loan, trên con đường này còn có một số đảo nhỏ kết hợp thành vòng cung ngoài của Biển Đông. Con sông phía bờ đối diện là Min Jiang (Mân Giang), dài 541km chảy qua tỉnh lị Phúc Châu của tỉnh Phúc Kiến ngày nay
 
 
 
 

 Sông Minjing ở Phúc Kiến. Nguồn: https://de.wikipedia.org/wiki/Min_Jiang_(Fujian)

Sự hiện diện của đế chế người Ấn thời A Dục Vương ở phía nam Trung Quốc là điều có thật, được Lịch Đạo Nguyên (thế kỷ 5-6) nhắc trong sách Thủy Kinh chú, từ một văn bản tên là “Lâm Ấp ký” có trước đó, ngày nay đã thất truyền:
“Lâm Ấp ký” nói: từ Giao Chỉ đi về phía nam có sông ngách Đô Quan Tái Phố chảy ra. Con sông này từ phía đông huyện đi qua huyện An Định, phía bắc kèm sông Trường Giang, ở trong sông Trường Giang có chiếc thuyền đồng do Việt Vương đúc, lúc nước triều xuống người ta có thấy chiếc thuyền ấy. Con sông Trường Giang ấy lại chảy về phía đông, cách sông có thành Nê Lê, nói thành này do A Dục Vương xây” (2).
An Định là một huyện thuộc quận Giao Chỉ, một trong bảy quận thuộc bộ Giao Chỉ. Đoạn văn trên cho thấy huyện này nằm phía nam của quận. Sông chảy từ phía đông huyện và đi qua huyện, tức là chảy lệch qua phía tây. Nếu xác định quận Giao Chỉ tương ứng với miền bắc Việt Nam thì không có con sông nào phù hợp như vậy cả. Đây cũng là một trong rất nhiều chứng cứ ủng hộ cho luận điểm tôi đã chứng minh, là quận Giao Chỉ vốn nằm ở phía Quảng Tây chứ không phải ở miền bắc Việt Nam. Phía nam quận Quảng Tây giáp biển, có các con sông là Nanliu (Nam Lưu) và Qin Jiang (Tần Giang) đúng là chảy lệch sang phía tây:

 


Bản đồ một phần của tỉnh Quảng Tây, Nguồn: https://www.chinamaps.org/china/provincemaps/guangxi-china-map.html


Con sông Nanliu phía bắc cạnh một sông khác, sông Beiliu (Bắc Lưu), khoảng cách giữa hai sông chỗ gần nhất, trên đường nối hai đô thị là Yulin (Ngọc Lâm) và Beiliu (Bắc Lưu), chỉ khoảng 12km. Như tên gọi, hai sông này đúng là một cặp. Sông Qin Jiang thì phía bắc cũng có một con sông lớn là Yujiang (Úc Giang), nhưng khoảng cách xa hơn. Vậy thì rất có thể sông Nanliu là Đô Quan Tái Phố, mà Beiliu là Trường Giang (sông dài). Dù trường hợp nào thì cũng không ra khỏi nhận thức rằng đã có sự hiện diện của đế chế A Dục Vương ở khu vực nay là phía nam Trung Quốc, giai đoạn mà bảy nước đang lo thôn tính nhau ở phía Hoa Bắc. Một tòa thành mà nhiều thế kỷ sau vẫn còn tồn tại và được ghi nhận chứng tỏ đã có một sự cái trị trên thực tế chứ không chỉ là ảnh hưởng mềm.
Tiến trình Hán hóa ở vùng Lĩnh Nam chỉ bắt đầu mạnh mẽ từ sau măm 43, khi Mã Viện chính thức bình định được Giao Chỉ bộ, chứa cả khu vực Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay. Theo Hậu Hán thư thì người Giao Chỉ vốn “ngôn ngữ mỗi nơi mỗi khác, phải qua nhiều lần thông dịch mới hiểu được. Người ở đó như cầm thú, lớn nhỏ không phân biệt, tóc búi ngang gáy mà đi chân đất, dùng vải quấn từ đầu xuống chân” (3). Ghi nhận trên cho thấy dân Giao Chỉ khác biệt lớn về chủng tộc và ngôn ngữ với người Trung Nguyên. Nhận xét về trang phục cho thấy có sự tương đồng với văn hóa Ấn Độ.

Bây giờ xin đối chiếu một số từ vựng Hindi và các từ tiếng Việt đồng nghĩa hoặc rất liên quan:

माँ maan, मा ma (mẹ) Má, Mạ
मौसी mausee (dì) Dì
पापा paapa (cha) Ba
मैं main (tôi, mình) Mình
वह vah (anh ta, chị ta) Va (ông va, mụ va)
बच्चे bachche (những đứa trẻ) Trẻ
बेबी bebee (đứa bé) Bé
के ke (của, thuộc về) Kẻ (người thuộc về một nhóm, một thể loại nào đó). Các khái niệm Kẻ Chợ, Kẻ Sở, Kẻ Quảng, Kẻ Mọi… là theo nghĩa này. Tên các làng Việt xưa thường có chữ Kẻ đứng trước.
दौड daud (loài) Đồ (đồ khỉ, đồ heo…)
आत्मा aatma (linh hồn); मर mar (chết) Ma, Mả
दल dal (đội) Đàn (đội, bầy, đàn), Đám
बल bal (lực lượng) Bầy
दौ dau (hai) Đôi
पाल paal (bạn thân), बंध bandh (liên kết) Bạn
गुलाम gulaam (nô lệ) Người làm, Làm
छोड़ना chhodana (rời khỏi) Chỗ, Chốn, Trốn
में mein (bên trong) Miền
चलन chalan (xu hướng, xu thế) Làn
वाल vaal (tường) Vách
कविता kavita (bài thơ) Ca (bài ca)
वसंत, वसं vasant (mùa xuân) Xuân
रंग rang, रं ran (màu sắc) Ráng (màu sắc)
लाल laal (màu đỏ) [đỏ] lòm
नदी nadee (dòng sông) Nác (nước)
चीज़ें cheezen (hàng hóa) Chợ
संपत्ति sampatti (của cải, tài sản) Sắm (sắm tài sản)
लाभ laabh (lợi nhuận) Lãi
व्यय vyay, व्य vy (chi phí) Vay
फिस phis (lệ phí) Phí (tiêu phí, chi phí)
चाल chaal (di chuyển) Chân
जिगर jigar (gan) Gan
किडनी kidanee (quả thận) Cật
मुँह munh (miệng, mồm) Mồm, Môi, Mui
माथा maatha (trán) Mặt
अंडा anda (trứng, hòn dái) Dái, Trứng dái. Hindi coi Dái cũng là một dạng Trứng, như Việt.
क्रॉसबार krosabaar (xà ngang) Xà
कॉलम kolam (cột) Cột
निर्माता nirmaata (thợ xây, thợ nề) Nề
ममी mamee (xác ướp) Mắm
कुदाल kudaal (cái cuốc) Cuốc, Cuốc đất
कप kap (cái tách, cái cốc) Cốc
दार daar (cửa) Cửa giả (cửa rả, cửa nói chung)
जला jala (đốt cháy), लहंगा lahanga (lò nung) Lả (lửa) – phương ngữ Trung Bộ
धुआं dhuaan (khói) Đun
चूहा chooha (chuột) Chuột
चिड़िया chidiya (chim) Chim
मुर्गा murga (gà) Gà
मुर्गी murgee (gà mái) Gà mái ghẹ
अंडे ande (trứng) Đẻ
कौआ kaua (con quạ) Qụa
कुत्ता kutta (con chó) Cún
सींग seeng (sừng) Sừng
माद maad (mật ong) Mật
चांद chaand (trăng) Trăng
बेड़ा beda (bè, hạm đội) Bè
नाव naav (thuyền) Nôốc, nốc (thuyền)
गहरी खाई gaharee khaee (rãnh sâu) Khe (rãnh, suối), Khê (溪Xī = suối, sông)
पत्थर patthar (cục đá) Đá
मैंगोस्ट maingost (măng cụt) Măng cụt
लोंगन longan (long nhãn) Long nhãn
मिठाई mithaee (ngọt) Mít (quả mít)
चाय chaay (chè, trà) Chè
सिम sim (trái sim) Sim
वस् vas, वस्तु vastu (sự vật) Vật
काल kaal (giai đoạn) Cơn
नम nam (ẩm ướt) Nấm
बदला badala (sự trả thù) Báo [thù]
खाना khaana (ăn) Ăn
खाओ khao (ăn), एक पार्टी खाओ ek paartee khao (có tiệc) Khao
बहस bahas (bàn bạc) Bàn
मन man (tâm trí) Mảng (gắn tâm trí vào cái cái gì đó)
विद् vid (học giả) Viết
कह kah (nói), कहना kahana (kể) Kể
नार naar (kể lại) Nói
चिल्ला chilla (la hét) La
गा ga, गाओ gao (hát) Ca, Gào
गायक gaayak (kẻ ca hát) Gáy
चोर chor (trộm) Chôm (trộm)
लूट loot (cướp bóc) Lột (cướp)
पकड़ना pakadana (bắt, nắm lấy) Bắt
काट kaat (cắt) Cắt
कदम kadam (bước chân) Dẫm; Dặm (đơn vị đo khoảng cách)
आ aa (đến, vào) A (sấn vào, a vào)
चलाओ chalao (chạy), तीर चलाओ teer chalao (bắn tên) Chạy, Lao
जाओ jao (đi) Dạo (đi dạo)
एड़ी edee (gót chân) Đi
बैठ baith (ngồi xuống) Bệt (ngồi bệt)
खज khaj (ngứa) Khải (gãi) – phương ngữ Trung Bộ
नौस naus (buồn nôn) Nôn, Nôn nao
दे de (đưa), दिया diya (đã đưa cho) Đưa
देने dene, देन den (cho, đưa) Đền (đền bù)
लें len (lấy); लाय laay (mang đến, mang lại) Lấy
इकट् ikat (sưu tầm) Cất
बोझ bojh (gánh nặng), बोझ गिराना bojh giraana (vứt bỏ) Bỏ
चुन chun (chọn) Chọn
फूँक phoonk (thổi) Phun
छुड chhud (giải phóng, thả ra) Trút
खींच kheench, खीं khin (lôi kéo, đã vẽ ra) Khiển, Khiến
कड़ी kadee (buộc dây) Cột
अप ap (hướng lên) Ấp (phủ bên trên)
बार baar (lần) Bận (lần)
हास has (sự mất mát), हत् hat (cái chết) Hết
बराबर baraabar (bằng nhau) Bằng
डूब doob (đắm) Đắm, Đầm (chìm; vùng đất trũng có nước). Phương ngữ một số nơi ở Việt Nam vẫn còn hiện tượng lẫn lộn giữa o và a, nói “láp xe độp” nghĩa là “lốp xe đạp”.
रिसाव risaav (rỏ rỉ) Rỉ
दंड dand (một sự trừng phạt), दबा (đàn áp) Đánh
सैनिक sainik (lính) Sai (sai bảo)
शान shaan (tráng lệ) Sang (sang trọng)
शाम shaam (buổi tối) Sẩm
कायर kaayar (nhát gan) Cáy (con Cáy). Con cáy rất nhát, có thể tên nó được đặt theo từ này)
पागल paagal (gàn dở) Gàn
खुश khush ( vui) Vui, Khoái
भया bhaya (sợ hãi) Hãi
दर्द dard (nỗi đau) Đớn (đớn đau)
सुख sukh (niềm hạnh phúc) Sung sướng
शक्ति shakti (quyền lực, sức mạnh) Sức
देरी deree (chậm trễ) Chậm rì
अस्थायी asthaayee (tạm thời) Thay
वहा vaha (ở đó) Vạ (nằm vạ, vạ vật)
शेयर sheyar, शार shaar (chia sẻ) Sẻ
चाह chaah (sự mong muốn) Chờ
अत at (vì thế) Ắt
ना na (không) Nỏ (không)
ने ne (có) Này, Nầy, Nè (có nè, đây nè)
व va (và) Và
वाह vaah Va (ồ, ố, ôi, a!)
हा ha (đúng) Hả, Hở (phải không? đúng không?)
हैं hain (là, hẳn là), हाँ haan (đúng) Hẳn
या ya (hoặc) Giả (hoặc giả, hoặc)
ठीक theek (chính xác), ठीक वैसा theek vaisa (giống như) Thế (như thế)
अगर aga (nếu như) Giá
कारण kaaran (lý do) Cớ, Răng (cớ sao)
वह vah (bấy), वही vahee (như nhau) Vậy (như vậy, chừng đó)
बन ban (trở nên) Bèn
क्या kya (cái gì) Kỳ, kể (bất kỳ, bất kể)
कै kai (gì) Cái gì
बाएं baen bên trái Bên
के पास ke paas (gần) Kề
कम kam (ít hơn) Kém
छोट chhot (bé nhỏ, thấp bé) Chột (không lớn nổi)
आका aaka (bậc thầy) Cả (đứng đầu)
होंठ honth (môi) Hôn, Hun
कामुक kaamuk (gợi cảm) Cảm (động lòng)
कमज़ोर kamazor (yếu đuối) Cảm (bị cảm)
डल dal (đần độn) Đần, Độn
जालसाजी jaalasaajee (giả mạo) Giả, Hàng giả
छl chhal (gian dối) Gian
सच sach (sự thật) Thật
तानाश taanaash (bạo chúa) Tàn ác, Ác
विघटन vighatan (giải tán) Tán (tán nhỏ ra); Tản
पतन patan (sự sụp đổ) Tàn
नष्ट nasht (bị phá hủy) Nát

Sự tương đồng ngôn ngữ này cho thấy khu vực nói tiếng Việt ngày nay chịu ảnh hưởng rất lớn từ nên văn minh Ấn Độ, trước khi nền văn minh Trung Hoa từ Hoa Bắc phủ xuống.
Tức là không có cái gọi là âm Hán thượng cổ trong ngôn ngữ Việt Nam.
Ngay cả quan điểm cho rằng lớp từ được gọi là từ Hán Việt chủ yếu là các âm Hán trung cổ, mà ngày nay được chấp nhận khá rộng rãi, cũng phải được xem xét lại.

Tôi đã tìm thấy nhiều từ gọi là Hán Việt, nhưng có yếu tố âm Hindi. Xin liệt kê sau đây, mỗi mục từ được xếp theo sơ đồ: Hindi – Hán Việt (nghĩa) – Hán:

मौ mau – Mẫu (mẹ) – 母Mā
नर nar – Nam (nam giới) – 男 nán
औरत aurat (phụ nữ) – Ẩu (mẹ, phụ nữ) – 嫗 yǔ
यह yah (nó) Giả anh ta, nó, nọ (者 zhě)
मुखिया mukhiya (kẻ đứng đầu) – Mục (kẻ chăn, kẻ đứng đầu)- 牧 mù
नौकरानी naukaraanee – Nô (người hầu) – 奴 nú
फेफड़ा phephada (phổi) – Phế – 肺 fèi
तिल्ली tillee (lá lách) – Tỳ – 脾 bài, pái
मन man (tâm trí) – Man ( quên mất, không nhớ) – 慲 không có âm Hán
बाँट baant (chia sẻ) – Ban (ban phát, chia cho) – 頒 bān
बंध bandh (liên kết) Ban (toán, tốp, đoàn, lớp…) – 班 bān; Bang (bang, nước) – 邦 bāng; Bang(liên kết, băng đảng)- 帮bāng
पशु pashu (súc vật) – Súc – 畜 chù, xù
शेर sher (con sư tử) – Sư – 狮 shi
साँप saanp (con rắn) – Xà – 蛇 chí, shé
फिस phis (lệ phí) – Phí – 費 bì, fèi
थोक thok (buôn) – Thương – 商 shang
दक्ष daksh (có hiệu quả) – Đắc – 得 dē (đúng, trúng)
जालसाजी jaalasaajee (giả mạo); जालसाज jaalasaaj
(người giả mạo); जालसा jaalasa (cạm bẫy) – Giả – 假 jiǎ
तेल teel (tinh dầu) – Tinh – 精 jing (tinh túy)
नहर nahar (con kênh) – Hà – 河 hé
गहरी खाई gaharee khaee (rãnh sâu) – Khê – 溪Xī (khe, lạch)
खो kho (mất) – Khố – 库kù (nơi chứa giữ)
ताला taala (cái khóa) – Tỏa – 鎖 suo
तीर teer (mũi tên) – Tiễn – 箭jiàn
पत्थर patthar (cục đá) – Thạch – 石 dàn, shí
वस् vas, वस्तु vastu (sự vật) – Vật – 物 wù
कंद kand (củ) – Căn – 根 gēn (gốc rễ)
नकाब nakaab (mặt nạ) – Nặc – 匿 nì (giấu kín)
उदास udaas (u buồn) – U – 怮 jau
फन phan (vui vẻ) – Phấn – 奋 fèn
कंपन kampan (rung động) – Cảm – 感 gan
खोना khona (thua) – Khuất – 屈 qu
खोया khoya (mất) – Khu, Khư , Khử -去qu (đã qua, chết, rời bỏ)
संघ sangh (liên hợp) – Song – 双 suang (cặp, cùng nhau)
विघटन vighatan (giải tán) – Tán, Tản – 散 san (tan nhỏ ra)
पतन patan (suy tàn) – Tàn – 殘 cán
हुआ hua (đã xảy ra) – Hóa – 化 hua (biến hóa, biến đổi)
ली lee (lấy đi) – Ly – 离 chi, lí, lì (dời ra, chia lìa)
द da (các) – Đa – 多 duō (nhiều)
बड़ा bada (to lớn) – Bá – 霸 bà (trùm, lớn)
बड़ा bada (to lớn) – Đại – 大 dà ( to lớn)
विशाल vishaal (to lớn) Vĩ – 伟 wei; Vi (微 wēi (nhỏ bé ); hoặc विभाजित vibhaajit (chia ra) – Vi – 微 wei (nhỏ, phần nhỏ)
नियम niyam (luật lệ) – Niêm (dính chặt) – 粘 lian, nián, zhan (dán, dính)
की kee (của, thuộc về) – Kỳ – 圻 qí (biên, cõi)
शुरू shuroo (bắt đầu) – Sơ – 初 chu
पाप paap (tội) – Pháp – 法fǎ
छl chhal (gian dối) – Chân – 嘿 Hēi (soi xét, phân biệt, nêu tỏ)
सच sach, सत् sat (sự thật) – Thật – 实 shí
थप thap (hơn) – Tháp – 拓 (tà khai triển, mở rộng)
मुक muk (im lặng) – Mặc – 嘿 hēi, mò (im lặng, không nói)
हो ho (đúng) – Hồ – 乎 hū (có đúng không?)
फट phat (nổ) – Phát – 发Fā (phát ra)
तेज़ tez (nhanh) – Tốc – 速 sù (nhanh chóng)
कब् kab (khi) Cấp (急 jí ) nhanh, gấp rút
जैसा jaisa (bằng, như) – Giai – 偕jiē (đều, cùng)
दंड dand (một sự trừng phạt) – Đàn – 掸Dǎn
माल maal (các mặt hàng) – Mại – 賣 mài (bán); Mãi – 买 mǎi (mua)
कामुक kaamuk (gợi cảm) – Cảm – 感 gǎn (động lòng)
धान dhaan (cơm); धान का खेत dhaan ka khet (ruộng lúa) – Điền – 田 tián
घोड़ ghod (con ngựa) – Ngọ (chi Ngọ trong 12 chi, biểu tượng là con ngựa) – 午 wǔ

Trong số này, có hiện tượng nhiều từ không giống âm Hán với chữ Hán mà nó được gán vào. Điều đó giúp phản bác quan điểm cho rằng lớp từ Hán Việt đều có gốc Hán. Mặt khác, lại ủng hộ ý kiến tôi đã nêu ra trong các bài trước, là hệ thống từ được gán với các chữ Hán này được tạo ra dưới triều các vua có nguồn gốc Champa, tên gọi một thành bang ở Ấn Độ thời cổ.


Chú thích:

1. Trúc thư kỷ niên (bản dịch của Nguyễn Đức Vịnh), Nxb Văn học, 2021, trang 249
2. Thủy kinh chú sớ (bản dịch của Nguyễn Bá Mão), Nxb Thuận Hóa & Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2005, trang 432,433
3. Hậu Hán thư – Q86 – Nam man, Tây nam di liệt truyện. Nội dung này được dịch bởi Châu Hải Đường, in trong sách An Nam truyện, nxb Hội nhà văn, 2018, trang 187


Một số nguồn tham khảo:

– Chương trình Google Dịch
– https://dictionary.cambridge.org/dictionary/english-hindi/
– https://hvdic.thivien.net/whv/%E5%8D%88
– http://tratu.soha.vn/
– Huình-Tịnh Paulus, Đại Nam Quấc âm tự vị
– Hoàng Phê (cb), Từ điển tiếng Việt
– Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Nxb Lá Bối – Sài Gòn, 1971
– Tư Mã Thiên, Sử ký
– Các bài viết trước đây của chính tác giả, đã tự công bố trên trang web cá nhân https://hoangcuongviet.wordpress.com/

No comments:

Post a Comment