Họ Phan ở Trung Quốc, chữ Hán là 潘, âm Trung Quốc là bō hoặc fān.
Theo sách Bách gia tính, được soạn từ thời nhà Tống và sau này còn được bổ sung nhiều, thì một hậu duệ của nhà Chu được ăn thái ấp ở đất 潘, rồi lấy tên ấp làm họ.
Sách này còn chép họ Bành là xuất xứ từ ông Bành Tổ, sống 800 năm. Một chi tiết chứng tỏ sự thiếu tin cậy. Thời điểm bắt đầu chép sách đã sau nhà Chu trên 1000 năm.
Họ Phan ở Việt Nam cũng có chữ Hán là 潘, nhưng không phát âm là bō
Những người theo thuyết nguồn gốc người Việt là từ phương Bắc có thể căn cứ trên sự giống nhau về văn tự để gắn các họ ở Việt Nam vào nguồn gốc Trung Quốc. Tuy nhiên thực tế không đơn giản như vậy.
Sau đây xin trình bày một số cơ sở.
1. Họ Phan của người Chiêm Thành
Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận một số nhân vật họ Phan gốc Chiêm Thành hoạt động trên đất Đại Việt:
- Phan Ma Lôi, trợ thủ đắc lực của Nguyễn Nộn, cuối thời Lý.
- Phan Mỗ, năm 1448 dẫn 340 hơn người sang hàng, được chia ra ở các đạo.
- Phan Ất, bè đảng của Trần Cung, con trai Trần Cảo.
Chiêm Thành là xứ sở chịu ảnh hưởng từ Ấn Độ là chính, chứ không phải từ Trung Quốc, vì vậy không thể nói rằng các nhân vật trên có gốc gác từ Trung Quốc. Vậy tại sao lại có họ Phan?
Nếu để ý rằng họ có thể là thủ lĩnh của một nhóm người Chiêm Thành, và biết thêm rằng trong tiếng Chiêm thì thủ lĩnh được gọi là PO, mà âm này trùng với một âm của chữ Hán 潘 chỉ họ Phan thì chúng ta có thể lý giải rằng người ta mượn chữ Hán trùng âm để chép tên các vị PO MA LÔI, PO MỖ, PO ẤT. Tức là thực tế các nhân vật này không phải họ Phan.
Rồi con cháu của những vị thủ lĩnh như vậy sống trên đất Đại Việt lấy chữ đó, cùng với âm PHAN, làm họ.
2. Một bản phổ chí họ Phan, được viết lại vào năm 1806, dựa trên các truyền ngôn, ghi nhận tổ tiên là các vua Chiêm Thành (https://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/20705)
Bản phổ chí còn cho biết đến thời nhà Trần người Chiêm Thành còn làm chủ đến lộ Đà Giang, vùng núi phía tây bắc Việt Nam ngày nay. Sau đó một viên cố vấn người Trung Hoa là Trịnh Giác Mật giết con vua Chiêm Thành và đoạt lấy, rồi rút cục về tay nhà Trần của Đại Việt. Nội dung này không được chép trong sử Việt, nên ngày nay người ta không thừa nhận. Tuy nhiên một số bộ sử Trung Quốc có niên đại sớm hơn nhiều, như Tân Ngũ Đại Sử, Tống Sử cho biết Chiêm Thành phía tây giáp đến Vân Nam, đây là các chi tiết khó có thể bác bỏ. Vậy thì thời Lý Trần ranh giới Đại Việt và Chiêm Thành không hẳn tương ứng theo vĩ độ như sử của chúng ta vẫn chép, mà thực ra nước Chiêm Thành ở cả về phía tây và phía nam của Đại Việt, cuộc mở rộng của Đại Việt theo hai hướng chứ không phải chỉ mỗi hướng nam.
Bản phổ chí còn cho biết về cuộc sáp nhập Chiêm Thành vào Đại Việt ngay trước nguy cơ thôn tính của nhà Nguyên. Đối chiếu với các nguồn sử Việt Nam và Trung Quốc thì chúng ta có thể hình dung như sau:
Các vị tổ của tộc Phan này là thủ lĩnh của một tiểu quốc thuộc Chiêm Thành. Chiêm Thành là một quốc gia rộng lớn, mà theo ghi nhận trong Tống sử thì chiều dài tới 3.000 dặm, chiều ngang 700 dặm, tức là bề dài phải kéo từ phía Vân Nam đến ngang với Nam Trung Bộ Việt Nam, và bề ngang phải kéo từ bờ biển Việt Nam sang rất sâu bên nước Lào ngày này. Rất có thể vùng Bồn Man ở Trung Lào và vùng Champasak ở Nam Lào ngày nay cũng từng thuộc đất Champa. Chính thủ lĩnh tiểu quốc này, chứ không phải cả nước Chiêm Thành, đã nhập vào Đại Việt. Họ được làm thông gia với nhà Trần và được giao trấn giữ địa bàn cũ.
Vậy thì vùng sáp nhập phải nằm ở phía tây của miền Bắc Trung Bộ và có thể sang cả lãnh thổ nước Lào ngày nay.
3. Một số họ Phan ở Nghệ An
- Phan Quý Hựu coi giữ Nghệ An từ trước cuộc xâm lăng của nhà Minh, sau hàng Trương Phụ. Con là Phan Liêu được Trương Phụ cho làm tri phủ Nghệ An. Ngoài ra còn có anh họ Phan Liêu là Phan Kiệt được làm Đồng tri châu phủ Trấn Man, nay là đất Lào, ở về phía tây tỉnh Thanh Hóa. Chức Đồng tri châu thường được dành cho thổ quan, tức là người bản địa.
Sử Việt cho biết Phan Liêu từng cung cấp thông tin về quân của Trùng Quang Đế cho Trương Phụ, khiến cuộc khởi nghĩa bị dẹp. Năm 1419 Phan Liêu vì bất mãn với Mã Kỳ nên giết nhiều quan quân nhà Minh rồi chạy sang Ai Lao. Phan Kiệt trốn theo Phan Liêu nhưng không thoát, bị giết. Sau Phan Liêu bị Lê Thái Tổ giết vì tội từng hợp tác với Trương Phụ.
Theo bộ Minh sử thì Phan Liêu có phục vụ Lê Lợi sau khi bỏ quân Minh. Quyển 321 – phần An Nam, cho biết trong khoảng năm 1423 đến 1425 Lê Lợi sai Phan Liêu và Lộ Văn Luật đến các châu Gia Hưng, Quảng Oai [tức là miền đất rộng lớn phía tây Thăng Long] chiêu tập đồ chúng, thanh thế ngày càng lan xa.
Như vậy thì Phan Liêu và Lộ Văn Luật thực ra có vai trò rất lớn trong thành công của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, nhờ ảnh hưởng của họ trong một khối dân chúng. Sở dĩ sử không chép công của hai nhân vật này mà chỉ chép tội là để cho việc bắt tội được hợp lý. Sở dĩ họ bị xử vì tội cũ, là do chính sách tập trung quyền lực về trung ương dưới thời nhà Lê, mà những thủ lĩnh có hậu thuẫn mạnh ở địa phương là một cản trở trực tiếp hoặc là mối nguy cơ tiềm ẩn. Các nhân vật như Bế Khắc Thiệu, Nông Đắc Thái, Đèo Cát Hãn cũng là nhưng trường hợp tương tự.
Rất có thể nhóm họ Phan này cũng là con cháu quý tộc Chiêm Thành.
- Gia phả dòng họ Phan của Thám hoa Phan Kính (thế kỷ 18) ở Can Lộc, Hà Tĩnh chép: “Con cháu ta là dòng dõi thủ lĩnh Nghệ An trại chủ, quan Nội hầu thuộc triều Trần, tỉnh Nghệ An” (1). Tên của vị trại chủ không được nêu, không biết có liên quan gì đến gia tộc Phan Quý Hựu hay không?
- Gia phả của dòng họ Phan Huy, trong đó có nhiều nhân vật rất nổi tiếng, ghi nhận tổ tiên thuộc ty Giáo phường [tức là một tổ chức hát ca trù, hát cửa đình] (2). Vị đầu tiên được chép trong phả là một nhân vật được phụng chỉ coi viêc Giáo phường làm phân trưởng cửa đình ở huyện, dưới thời Lê Thánh Tông. Vị này được gọi là Ông Trằm, tên thật không được chép.
Lý giải cho cái tên Ông Trằm, phả cho biết do lúc đó mới nhập tịch vào phía tây xứ Trầm Vịt, thôn Chi Bông, xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc. Từ việc không chép tên thật đến việc gán tên vị nhạc công vào với xứ Trầm Vịt, có vẻ hơi khiên cưỡng, tôi cho rằng có thể có một cách giải thích khác. Vị này là một quý tộc Chiêm Thành, đã bị bắt hoặc theo về Đại Việt, vì thế được gọi là ông Chàm, mà người ta chép trệch là Trằm. Những quý tộc Chiêm Thành là bậc thầy của Đại Việt về âm nhạc và nghệ thuật nói chung, do đó họ vẫn được sử dụng.
Tạm kết luận
Không thể lấy chữ 潘trùng nhau giữa Việt Nam và Trung Quốc, mà cũng có thể mở rộng ra cho các họ khác, để cho rằng họ cùng một nguồn gốc. Rất có khả năng nhiều nhóm họ Phan ở Việt Nam có nguồn gốc từ quý tộc Chiêm Thành.
Bài viết của tôi dựa trên những tài liệu được xuất bản chính thức, tức là tôi được quyền nghiên cứu và nêu ra giả thiết. Tuy nhiên tôi hiểu rằng với người Việt ngày nay thì nghiên cứu về dòng họ là một vấn đề nhạy cảm. Nói điều này để các bạn có tham gia bình luận thì vui lòng để ý.
Chú thích:
1. Nội dung này được trích từ cuốn Phan Công Gia Phả, Nxb Thế Giới, 2006, trang 13
2. Phan Công Gia Phả, sđd, tr33,34
No comments:
Post a Comment