Cách đây không lâu, tôi nhìn thấy câu hỏi này trong sách của anh Inrasara. Bài viết nhắc đến một câu hát vẫn được lưu trong dân tộc Chăm: “Akauk gah Harơk Kah, iku gah Panrang”, nghĩa là đầu của vương quốc ở Harơk Kah, cuối vương quốc ở Panrang.
Trong khi Panrang đã được dễ dàng chấp nhận là Phan Rang ngày nay, thì Harơk Kah vẫn là địa danh mà giới nghiên cứu Champa đến nay chưa thể thống nhất vị trí. Một trường phái thì cho là ở Quảng Bình, một trường phái cho là ở Phú Yên.
Tôi có ý kiến khác.
Thoạt nhìn thì câu trên không có vẻ gì giống ngôn ngữ Việt ngày này, tuy nhiên thực tế nó khá gần với ngôn ngữ Bắc Trung Bộ. Chẳng hạn người ở Hà Tĩnh sẽ nói lại như sau: “Trốc là Harơk Kah, khu là Panrang”.
Tôi lại phát hiện thêm vài chi tiết có vẻ liên quan đến đất Hà Tĩnh.
Thứ nhất là tên Harơk Kah gợi đến tên sông Cả, một tên khác của sông Lam. Nhiều vùng ở Hà Tĩnh vẫn gọi sông này là sông Cả hay sông Ngàn Cả. Thứ hai là ở ven biển Hà Tĩnh có một ngọn núi tên là Nam Giới. Sách Đại Nam nhất thống chí , soạn dưới thời nhà Nguyễn, cho rằng đây từng là nơi giáp giới với Chiêm Thành, tức là Champa.
Thế nhưng núi Nam Giới lại nằm về phía nam và cách cửa sông Cả đến khoảng 40km. Tức là hai vị trí này không thể “liên danh” để kéo Harơk Kah về phía Hà Tĩnh.
Có vài chi tiết có thể giúp thay đổi cách nhìn nhận vấn đề.
Thứ nhất, là dòng sông Cả chạy theo hướng đông nam và nam, khi ra gần tới biển lại ngoặt về hướng đông bắc. Nếu không có khúc ngoặt đó thì hướng chảy sẽ đi về khu vực Nam Giới. Có thể trước đây sông đã từng chạy thẳng, sau mới đổi dòng.
Thứ hai, là có một con sông nhỏ tên là sông Nghèn, chảy từ gần bờ phía nam của sông Cả rồi đổ xuống cửa sông bên cạnh phía bắc của núi Nam Giới. Chữ Nghèn cũng mang nghĩa là nghẹn. Thực tế dân Hà Tĩnh phát âm từ “nghẹn” khá giống với “nghèn”. Vậy rất có thể đây vốn là dòng chảy của sông Cả, nhưng bị lấp đi gần hết, nên gọi là nghèn.
Thứ ba, là cửa chỗ sông Nghèn đổ ra biển có tên là cửa Sót. Cửa này thực tế cũng ngoặt sang phía bắc. Tức là nếu dòng chảy đủ lớn thì nước chủ yếu phải đổ vào phía nam của núi Nam Giới mới hợp lý.
Từ các điều này, chúng ta có thể giả định là sông Cả vốn chạy ra phía núi Nam Giới, với cửa chính nằm ở phía nam núi. Sau đó vì lý do nào đó, tự nhiên hay nhân tạo, mà sông bị đổi dòng ra phía cửa Hội ngày nay, khúc sông cũ bị lấp dần, gọi là Nghèn, cửa sông phía bắc còn sót lại được gọi là cửa Sót. Chỗ cửa sông phía nam chính ra ranh giới. Việc ngọn núi có tên là Nam Giới hoàn toàn phù hợp với giả định này.
Nếu có thể tìm thấy nghĩa của từ Harơk có gắn với sông thì có lẽ Harơk Kah chính là sông Cả, và hướng chảy cũ đúng như giả định vừa nêu.
Theo Inrasara thì ngày nay người Chăm không biết từ này nghĩa là gì, nên mới quan niệm đó là danh từ riêng. Tuy nhiên trên nhiều khu vực miền Trung có một số con sông có tên gọi có thể gợi đến nó. Trang Wikipedia cho biết như sau:
• Sông Hà Ra (Thạnh Mỹ), phụ lưu của Đắk Mi hay sông Vu Gia, chảy ở huyện Nam Giang tỉnh Quảng Nam [1].
• Sông Hà Ra (Nha Trang) tỉnh Khánh Hòa
• Cửa Hà Ra, cửa sông ở xã Mỹ Đức, Phù Mỹ tỉnh Bình Định.
Ngoài ra, sông Côn, một con sông lớn ở Bình Định cũng có đoạn được gọi là sông Hà Giao hay Hà Rêu.
Gần như có thể chắc rằng các từ này liên quan với Harơk về mặt từ nguyên, để chỉ con sông, rồi sau này người ta lấy nó làm danh từ riêng, làm tên riêng cho một số con sông. Rồi người Chăm cũng không còn biết nghĩa của nó nữa.
Nếu để ý thêm, thì khúc sông Nghèn gần sát Cửa Sót có tên là sông Hạ Vàng. Nếu Hạ có thể là từ rút ngắn của Harơk thì từ “Vàng” ở đây nên được giải thích thế nào?
Trong ngôn ngữ Chăm thì từ van/vang là chỉ một cái nhánh tách ra từ thân. Vậy thì có thể giải thích được rằng “Hạ Vàng” là biến âm từ Harơk Vang, nghĩa là sông nhánh, mà thôi.
Tóm lại, khá đủ cơ sở để cho rằng từ Harơk Kah trong câu hát được lưu truyền lâu đời của người Chăm là chỉ con sông Cả.
No comments:
Post a Comment