Search This Blog

Thursday, June 30, 2022

Vấn đề vị trí châu Đường Lâm

 


Vấn đề châu Đường Lâm hiện là một đề tài tranh cãi trong giới sử học.

Mặc dù đã có một Đường Lâm ở Sơn Tây, thế nhưng theo mô tả trong một số tài liệu Trung Quốc thì vị trí Đường Lâm này được cho là không phù hợp.

Chẳng hạn, Tân Đường thưquyển 43 hạ ghi [Trần Trọng Dương dịch]: “Đạo Lĩnh Nam: Một đường từ phía đông Hoan Châu đi hai ngày, đến huyện An Viễn của châu Đường Lâm, đi về phía nam qua sông Cổ La, đi hai ngày đến sông Đàn Động của nước Hoàn Vương. Lại đi bốn ngày đến Chu Nhai. Lại đi hai ngày qua Đan Bổ Trấn, đi hai ngày đến thành nước Hoàn Vương, thời Hán xưa gọi là đất Nhật Nam vậy”.

Nếu quan niệm Hoan Châu, tức là vùng Nghệ Tĩnh, thì châu Đường Lâm được nhắc đến phải ở vùng phía nam Nghệ Tĩnh mới đúng.

Các nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương, Nguyễn Tô Lan, Trần Trọng Dương là những người đã chứng minh quan điểm này. Ý kiến của nhóm được trình bày qua hai bài viết, trên trang blog: http://trantrongduong.blogspot.com/2011/06/uong-lam-son-tay-huyen-su-tkxx.html , http://trantrongduong.blogspot.com/2011/06/uong-lam-la-uong-lam-nao.html, trong một số tạp chí và trong cuốn sách của Việt Nam thế kỷ X – Những mảnh vỡ lịch sử.

Tôi tạm gọi đây là quan điểm của nhóm Trần Trọng Dương, bởi vì ông Trần Trọng Dương là người đứng tên tác giả cuốn sách, với sự ủy quyền của hai tác giả còn lại.

Trước khi tìm hiểu lập luận của nhóm Trần Trọng Dương, chúng ta hãy xem xét một số chi tiết trong sử sách xưa nay liên quan đến Đường Lâm.

Thứ nhất: Việt điện u linh tập, tác giả Lý Tế Xuyên, soạn năm 1329.

Phần truyện về Bố Cái cho biết:

Dựa vào sách Giao Châu ký của họ Triệu, thì Vương họ Phùng, đời đời làm tù trưởng nơi biên khố của châu Đường Lâm, gọi là Quan lang. Trong khoảng niên hiệu Đại Lịch [766-779], nhân lúc quân ở An Nam làm loạn, anh em vương đem quân đi chinh phục các ấp lân bang, đều thu phục được, uy danh chấn động. Bấy giờ Đô hộ An Nam là Cao Chính Bình đánh Vương không được. Nghe tin vương sẽ vây Đô phủ, Bình lo buồn mà chết. Vương kéo quân vào phủ, cai trị được bảy năm thì mất. Lại nói, khi Phùng Hưng mới mất, hay hiển linh, mọi người cho Phùng Hưng là thần, bởi vậy lập miếu thờ ở phía tây của Đô phủ. Phàm những việc trộm cắp ngục tụng còn ngờ, nếu đến miếu để thề thì lập tức họa phúc giáng ngay, bởi thế, hương hỏa bất tuyệt. Sau Ngô Quyền đánh giắc phương bắc, mộng thấy Phùng Hưng hiển linh giúp đỡ. Thắng trận, Ngô Quyền hạ chiếu xây điện miếu tôn nghiêm, làm lễ tế để tạ ơn. Việc đó trải qua nhiều năm đã thành cổ lễ.

Như vậy, từ thời nhà Trần người ta đã ghi nhận việc thờ Phùng Hưng là một cổ lễ.

Từ các chi tiết miếu thờ Phùng Hưng ở phía tây kinh thành, và việc ông có thể uy hiếp Đô hộ An Nam đến sợ mà chết, chúng ta có thể thấy Đường Lâm này ở khá gần phủ Đô hộ chứ không thể ở xa đến tận phía nam Hà Tĩnh được.

 
Thứ hai: Đại Việt sử ký toàn thư, phần chép của Ngô Sĩ Liên, thế kỷ 15. Sách này cho biết:

  • Mùa hạ năm Tân Mùi (791), người Đường Lâm thuộc Giao Châu [sách này chú là Đường Lâm tại huyện Phúc Lộc] là Phùng Hưng nổi binh vây phủ, Cao Chính Bình lo sợ mà chết, Phùng Hưng về sau được con là An tôn xưng làm Bố Cái đại vương. Về sau, dân lập lập đền thờ ở phía tây Đô phủ, đến lúc đó [thế kỷ 15] vẫn còn.
  • Năm Đinh Mão (967), con em Ngô Tiên Chúa [Ngô Quyền], ở Đỗ Động Giang nghe tin Trần Lãm chết liền đem quân đánh, bị bại. Đinh Bộ Lĩnh nghe tin, mới đem quân đến đánh Đỗ Động Giang, từ đó các lại dân ở kinh phủ đều khâm phục mà theo về.
  • Năm Thuận Thiên thứ 7 [1016], vua Lý Thái Tổ đi xem núi sông, đến bến đò Cổ Sở thì làm lễ khấn. Đêm ấy, vua chiêm bao thấy có dị nhân xưng tên là Lý Phục Man, được giao trông coi hai dải sông núi Đỗ Động và Đường Lâm, người Di Lão không dám xâm phạm. 

Chúng ta có thể dựa vào một số địa danh để xem xét phạm vi của Đường Lâm. Đó là huyện Phúc Lộc, bến đò Cổ Sở và vùng Đỗ Động.

Huyện Phúc Lộc, theo phần Tập chú của sách Dư Địa chí [Nguyễn Trãi soạn, Nguyễn Thiên Túng tập chú], thế kỷ 15, thì huyện này ở trấn Sơn Tây. Vậy thì Đường Lâm của Phùng Hưng chỉ có thể ở phía Sơn Tây chứ không thể ở phía nam Hà Tĩnh được. Vị trí Đường Lâm ở Sơn Tây thì đúng là ở phía tây Đô phủ.

Bến đò Cổ Sở, còn gọi là Bến Giá, nay ở xã Yên Sở, nằm trên sông Đáy, xưa thuộc phủ Quốc Oai, Sơn Tây.

Đỗ Động Giang, xưa là một xứ lớn, theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì năm 995 Lê Hoàn cử hoàng tử thứ tám là Tương làm Phó Vương, đóng ở Đỗ Động Giang. Ngày nay Đỗ Động là một xã nằm gần thị trấn Kim Bài, về phía nam của trung tâm Hà Nội.

Xét trên bản đồ địa hình mà chúng ta có thể dễ dàng tiếp cận (xem hình 2), thì tương quan giữa trung tâm Thăng Long với hai dải sông núi Đường Lâm và Đỗ Động, tức là từ núi từ dãy Ba Vì lên phía bắc và phía sông Đáy, hoàn toàn phù hợp với mô tả.

Như vậy Đường Lâm không thể ở phía nam Hà Tĩnh được.

Thứ ba: Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Quốc sử quán triều Nguyễn soạn từ năm 1856, hoàn thành năm 1884.

  • Phần Tiền biên, quyển 4, chép:“Đường Lâm, tên xã xưa. Sử cũ chua ở huyện Phúc Lộc. Phúc Lộc nay đổi tên là Phúc Thọ thuộc tỉnh Sơn Tây. Xét theo Sơn Tây tỉnh sách, xã Cam Lâm thuộc huyện Phúc Thọ, xưa gọi là Đường Lâm. Phùng Hưng và Ngô Quyền đều ở xã này cả. Bây giờ vẫn còn đền thờ”.
  • Tiền biên, quyển 5, cho biết:Ngô Quyền, người xã Đường Lâm, thuộc dòng quý tộc đã lâu đời, cha là Mân, trước làm châu mục ngay châu nhà…Diên Nghệ gả con gái cho. Ngô Quyền coi giữ Ái Châu.

Ở một đoạn sau, Cương mục còn có lời chua: “Đường Lâm, tên xã xưa. Xem thuộc Đường, năm Trinh Nguyên thứ 7 (Tiền biên.4, 26). Theo sách An Nam kỷ yếu, Ngô Quyền người Ái Châu. Vậy không rõ sách nào chép đúng”.

Sách An Nam kỷ yếu của Cao Hùng Trưng, cuối thế kỷ 17, có lẽ chép lại chi tiết này từ cuốn An Nam chí lược của Lê Tắc. Lê Tắc đầu hàng và theo quân Nguyên về đất Trung Quốc, sau đó soạn An Nam chí lược vào khoảng năm 1300.

Trong khi sử gia trong nước có điều kiện tra soát thực địa, lại có thể tham khảo những sách viết trước cả Lê Trắc, như Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, thì Cao Hùng Trưng và Lê Tắc đều là người ở xa mà viết, nên có thể nhầm lẫn từ chuyện Ngô Quyền được cai quản Ái Châu thành ông là người Ái Châu. Lời chua này phản ánh sự cẩn thận của sử gia, hơn là một căn cứ để phản bác nhận định về Đường Lâm.

Thứ tư: Phương Đình dư địa chí, hay còn gọi là Đại Việt địa dư toàn biên, tác giả Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

Sách này được các học trò của Nguyễn Văn Siêu xin hiệu khám để xuất bản vào năm 1882. Theo lời tựa của Phụ chính đại thần Nguyễn Trọng Hợp, cho lần in đầu tiên, năm 1900, thì: “Bản thảo đã xong năm Nhâm Ngọ niên hiệu Tự Đức [1882], các học trò tiên sinh mới đem xuất bản, ta vì bận việc chưa kịp xem, lại 18 năm nữa việc hiệu khám mới xong, xin ta bài tựa để đặt đầu sách. Ta trộm nghĩ, địa chí thuộc về sử gia, không phải kẻ tài cao biết rộng không thể làm được. Sách này chất mà đúng, ước mà đủ, những điều khảo cứu đều có trác kiến, nếu không cho công bố cho mọi người cùng biết, thì trước hơn 2000 năm cho đến ngày nay, trong khoảng đó cương vực bờ cõi thay đổi rất nhiều, người sau bởi đâu mà biết được, cho nên ta vui lòng đem sách này ra mắt với đời, mới đem những lời nói đó viết làm bài tựa”.

Phần về tỉnh Sơn Tây, cho biết: Sơn Tây là đất Phong Châu xưa. Năm thứ 10 niên hiệu Quang Thuận (1469) gọi là Sơn Tây thừa tuyên, lĩnh 6 phủ. Huyện Phúc Lộc thuộc về phủ Quốc Oai. Khoảng niên hiệu Gia Long gọi là Sơn Tây trấn, năm thứ 10 niên hiệu Minh Mạng gọi là Sơn Tây tỉnh. Tỉnh lị nguyên ở xã Cam Giá, huyện Phúc Thọ.

Sách này lại cho biết: “Nay xét sử cũ chép: vua Bố Cái Đại Vương là Phùng Hưng, vua Tiền Ngô là Ngô Quyền đều là người Đường Lâm, nay ở xã Cam Lâm, tổng Cam Giá huyện Phúc Thọ có hai đền thờ vua Bố Cái Đại Vương và vùa Tiền Ngô Vương, đền có văn bia chép rằng: Bản xã là đất núi rừng xưa là Đường Lâm, đời sau anh hào thời Đường có vua Phùng Vương húy là Hưng, đời Ngũ Đại có vua Ngô Vương húy là Quyền, hai vua cùng làng, từ xưa ít có, uy đức lâu dài, miếu mạo như cũ. Niên hiệu chép là năm thứ 2 Quang Thái [1390]”.

Thứ năm: Viêm Giao Trưng Cổ Kí, tác giả là Cao Xuân Dục (1843-1923). Cao Xuân Dục từng trải qua rất nhiều chức vụ trước khi làm đến Đông Các đại học sĩ, trong đó có thời gian làm Tổng đốc Sơn – Hưng – Tuyên.

Theo lời tựa của Cao Xuân Dục khi xuất bản sách này vào năm 1900, thì trong thời gian làm quan các nơi ông đều để ý ghi chép lại các sự tích, di tích nước Nam, đến lúc đó mới sắp xếp biên tập lại thành sách.

Viêm Giao Trưng Cổ Kí cho biết:

  •  Miếu Tiền Ngô Vương ở xã Cam Lâm huyện Phúc Thọ. Vương người bản xã, họ Ngô[…]Sau khi ông mất, con trai là Ngô Xương Văn dựng miếu thờ ở quê cho dân làng thờ phụng. Năm Quang Thái thứ 3 (1390) dân dựng bia ở miếu, nay[1900] vẫn còn.
  • Đền Bố Cái Đại Vương họ Phùng, ở xã Cam Lâm, huyện Phúc Thọ. Vương người bản xã, họ Phùng, sinh ra trong một gia đình giàu sang quyền thế […] Sau khi ông mất, con trai lên nối ngôi, suy tôn ông là Bố Cái Đại Vương. Sau được dân địa phương lập đền thờ phụng. Năm Hồng Đức đời Lê trùng tu đền, dựng bia, hiện vẫn còn. Ngày nay [1900], nhiều tỉnh hạt ở Bắc Kì đều có đền thờ phụng.

Chúng ta có thể rút ra được kết luận là những ghi nhận về quê hương Đường Lâm của hai vị vua Phùng Hưng và Ngô Quyền suốt từ nhiều thế kỷ là liên tục và rõ ràng.

Vấn đề Đường Lâm, đất hai vua, cơ bản đã được giải quyết, sau một bài viết của Trần Quốc Vượng vào tháng 8/1967, trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử (số 101). Bài viết có sau chuyến điền dã của ông về Đường Lâm Sơn Tây.

Tuy nhiên, theo nhóm tác giả Trần Trọng Dương thì cơ sở chủ yếu của Trần Quốc Vượng là tấm bia mà ông gọi là “Bia Đường Lâm” có niên đại năm 1390, mà thực tế thì đây chỉ là bia ngụy tạo, khắc vào đầu thời nhà Nguyễn, khoảng từ năm 1802 đến 1821.

Mặt khác, các tác giả này dựa vào ý kiến của Đào Duy Anh trong sách Đất nước Việt Nam qua các đời, như sau: Đại Việt sử kí toàn thư (ngoại kỉ, quyển 5) chép rằng Ngô Quyền là người Đường Lâm, con Ngô Mân là châu mục bản châu. Sách Cương mục (Tiền biên, quyển 5) chú rằng: Đường Lâm là tên xã xưa, theo sử cũ chú là huyện Phúc Lộc, huyện Phúc Lộc nay đổi làm huyện Phúc Thọ, thuộc tỉnh Sơn Tây. Xét Sơn Tây tỉnh chí thì thấy nói xã Cam Lâm, huyện Phúc Thọ xưa gọi là Đường Lâm. Phùng Hưng và Ngô Quyền đều là người xã ấy, nay còn có đền thờ ở đó. Chúng tôi rất ngờ những lời ghi chú ấy và nghĩ rằng rất có thể người ta đã lầm Đường Lâm là tên huyện đời Đương thuộc châu Phúc Lộc (Phúc Lộc châu có huyện Đường Lâm) thành tên xã Đường Lâm thuộc huyện Phúc Thọ. Huyện Đường Lâm, châu Phúc Lộc là ở miền nam Hà Tĩnh. An Nam kỷ lược thì lại chép rằng Ngô Quyền là người Ái Châu, cũng chưa biết có đúng không”.

Bài viết của nhóm còn có đề cập là sự nghi ngờ này cũng đã le lói đâu đó trong các công trình của một số người khác, như Văn Tân, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Huệ Chi…   Hẳn là những nghi ngờ của Đào Duy Anh và những người khác đến từ một nhận thức rằng còn có một Đường Lâm châu, tức là Phúc Lộc châu, ở kề với Hoan Châu, tức là phía nam Hà Tĩnh. Có thể nói rằng đó là cơ sở cho cách nhìn nhận khác về Đường Lâm.

Sau một số thao tác lập luận, các tác giả này xâu chuỗi như sau:   “[1] Bia ngụy tạo vào quãng 1802 đến 1821; [2] Dựa vào bia này Nguyễn Văn Siêu đã khẳng định Cam Lâm vốn là Đường Lâm, quê của hai vua Phùng Hưng và Ngô Quyền; [3] Vua Tự Đức đã sai bộ Lễ công nhận đây là di tích cấp “quốc gia” và ban “sắc kiến” vào năm 1874; [4] Sau đó, “đất hai vua” chính thức được đưa vào chính sử vào năm 1882; [5] Đặng Xuân Bảng cẩn thận hơn nữa đã chú Đường Lâm thuộc về Phong Châu. Nhầm lẫn của triều đình và các sử gia trong thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là có thể chấp nhận được, khi các quan biên tu triều Nguyễn không có quá nhiều thời gian và điều kiện để trực tiếp khảo sát địa phương, mà phần lớn các tư liệu đều do hệ thống nha lại các cấp ở dưới đưa lên. Tuy nhiên, ở hai thế kỷ sau đó, việc vô tình hay hữu ý, bất cập ở chuyên môn hay sự khéo léo trong câu chữ của các nhà làm sử đã viết tiếp trang huyền sử thời hiện đại cho mảnh đất này”. 

Lập luận này có những sai lầm như sau:

Một là: Không xem xét đầy đủ hai văn bản trước thời Nguyễn, là Việt điện u linh tập và Đại Việt sử ký toàn thư. Theo phân tích ở trên từ hai cứ liệu này thì rõ ràng Đường Lâm, đất của hai vua, ở Sơn Tây chứ không thể ở về phía Hà Tĩnh được.  

Hai là: Quy cho Nguyễn Văn Siêu gây ra những lầm lẫn của sử gia dưới triều Nguyễn. Nội dung này được chép rõ như sau: “Có thể thấy Nguyễn Văn Siêu là học giả đầu tiên ấn định địa danh Đường Lâm thuộc về Sơn Tây, sau đó thông tin này được chính sử nhà Nguyễn công nhận vào năm 1882. Kể từ đây, Sơn Tây đã tồn tại như một mảnh đất hai vua”.  

Như đã đề cập ở phần Phương Đình dư địa chí, quá trình chờ hiệu khám phải mất đến 18 năm mới được Phụ chính đại thần triều Nguyễn cho phép công bố, vào năm 1900. Cũng có thể nói là sách này chỉ mới được các học trò của Nguyễn Văn Siêu tập hợp lại hoàn chỉnh từ tác phẩm của ông vào năm 1882. Trong khi đó bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục được khởi thảo từ năm 1856, công bố năm 1884, còn quyết định công nhận di tích của vua Tự Đức là vào năm 1874, vậy thì làm sao lại có thể quả quyết gán trách nhiệm cho Nguyễn Văn Siêu về việc công nhận Đường Lâm ở Sơn Tây.

Ba là: Quy cho sử gia thế kỷ 20, mà có thể hiểu là chủ yếu nói về Trần Quốc Vượng, là “vô tình hay hữu ý, bất cập ở chuyên môn hay sự khéo léo trong câu chữ của các nhà làm sử đã viết tiếp trang huyền sử” về Đường Lâm.  

Chúng ta có thể chưa cần xem bài viết của Trần Quốc Vượng để xác nhận rằng có phải ông chủ yếu chỉ dựa vào tấm bia cho những lập luận của mình hay còn có những cứ liệu khác, và cũng có thể tạm không xem xét bia đó là giả mạo hay được khắc lại từ nội dung bia cũ. Thậm chí chúng ta có thể cho rằng điều đó đúng như nhận định của nhóm Trần Trọng Dương. Vậy thì cũng không thể lấy đó làm cơ sở để phủ nhận những sử liệu xưa, từ Việt điện u linh tập, Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Phương Đình dư địa chí...

Trần Quốc Vượng rõ ràng chỉ làm công việc bác bỏ một giả thuyết mà Đào Duy Anh mới nêu ra như một nghi ngờ, chứ không thể là người tạo dựng một quan điểm chính thống, như các tác giả này viết: “50 năm qua là 50 lớp người được hiểu về lịch sử theo quan điểm chính thống ấy. Những băn khoăn, trăn trở thuở nào của các bậc cựu học như Đào Duy Anh, Văn Tân đã không mấy ai còn biết đến nữa. Lịch sử đã xuôi theo một chiều đẹp đẽ làm thỏa mãn sự tự hào của bao nhiêu lớp người yêu văn hóa lịch sử Việt Nam”.

Cách suy luận của nhóm tác giả Trần Trọng Dương còn mặc định rằng nếu tài liệu A ghi nhận một sự việc trước tài liệu B thì có thể suy ra rằng B chép lại từ A. Suy luận này đã bỏ qua một khả năng là bên cạnh tài liệu A có thể còn có những tài liệu khác để B có thể tham khảo.  

Như vậy Đường Lâm ở Sơn Tây, đã được ghi nhận liên tục, nhất quán là mảnh đất hai vua Phùng Hưng và Ngô Quyền từ xưa đến nay, không thể bác bỏ. Không còn có một vùng Đường Lâm nào khác được ghi nhận.  

Hoan Châu được nói đến lại là một thực thể khác, vốn được thành lập trên cơ sở huyện Hàm Hoan thời Hán. Mà huyện này thì ở phía tây nam Quảng Tây, và có thể cả một phần phía đông nam Vân Nam. Tôi đã làm rõ điều này trong bài viết: Thử xác định vị trí một số quận huyện trên đất Lĩnh Nam thời Hán; Tìm khu vực trống đồng; Tìm kiếm căn nguyên của một số ngộ nhận lịch sử.

No comments:

Post a Comment