Search This Blog

Sunday, July 21, 2024

Về tên gọi Làng, Thành và vua Hùng

 


Bài viết này nhằm giải quyết khía cạnh nguồn gốc các khái niệm Làng, Thành (thành phố) và Vua Hùng.

Chìa khóa để giải quyết vấn đề là mối tương đồng giữa từ vựng tiếng Việt và tiếng Champa. Theo tìm hiểu của tác giả, có dấu hiệu rõ ràng cho thấy ngôn ngữ mà nay được coi là tiếng Champa (từ nay tôi dùng từ Champa thay vì các từ Chăm, Cham, Chàm trong các bài viết trước) từng có một độ bao phủ rộng, ra tới khu vực nay là miền Bắc Việt Nam, góp phần hình thành ngôn ngữ nay là tiếng Việt.

Trước hết, xin minh họa bằng một số ví dụ, giới hạn trong phạm vi con người, sinh hoạt và ứng xử:

- leh – [đi, tham gia] lễ hội

- tet – tết

- nhom, chum – tụ tập, nhóm họp, góp

- thêt – khao, đãi

- bai – tế bái

- rôn - ồn, rộn

- pui - vui

- rău - rầu

- chơp – chấp

- thah - thỏa

- kahề - hề, hài

- atuk - tục, lóng

- đei - đầy, lắm

- hăk hệt

- hiêp – ăn hiếp, bắt nạt

- mưtuih tủi

- riăk – ác, hung

- hok – hóc

- eh - ẻ, ỉa

- huit – huýt sáo

- kamlo – câm

- panôik – lời nói

- hao – hao tốn

- khô – khổ

- lakău – cầu, xin

- oan – oan

- padap – chế ngự (đập)

- pasai – sai bảo

- pathău - tâu

- tanăk – nấc, thứ tự

- ruh – rủ, giũ

- bit – bịt, trám

- lok – lóc, lột

- prêu – réo

- thi – thì, sẽ

- pre – rè, khàn

- harăt – rặt, thuần

- thiam – đẹp, thắm

- muk - bà, mụ

- ong - ông

- tachauw tachaik – cháu chắt

Có thể nhận thấy, nhiều từ đơn âm tiết trong tiếng Việt là kết quả của sự giản lược các từ đa âm tiết trong ngôn ngữ cổ mà nay còn bảo lưu trong tiếng Champa ở cực nam Trung Bộ Việt Nam.

Bên cạnh sự tương đồng về ngữ âm, sự tương đồng về phương thức tri nhận cũng là một dấu hiệu quan trọng cho thấy sự liên quan sâu sắc giữa hai ngôn ngữ. Trong tiếng Champa, từ Ia vừa được dùng để chỉ: a – Nước (chất lỏng có công thức hóa học là H2O); b – Nước (quốc gia); c – Nước (vẻ bên ngoài, dung nhan). Sương đồng với tiếng Việt là rất cao. Nhiều từ ghép cũng là kết quả phái sinh theo cách giống nhau, ví dụ: ia idung – nước mũi: ia mưta – nước mắt; ia pabah – nước miếng; ia mưsin – nước mắm, ia liăn – nước lạnh (nước lã); ia mưik – nước tiểu… Rõ ràng chúng được cấu tạo từ cùng một nền tảng nhận thức chứ không thể trùng hợp ngẫu nhiên.

Bây giờ chúng ta hãy xét đến các khái niệm Làng, Thành phố và vua Hùng

1. Làng

Làng là một khối cư dân sống quây quần một nơi nhất định ở khu vực đồng bằng hoặc trung du. Mặc dù là đơn vị cơ sở có tính nhận diện rõ nét nhất, nhưng làng lại không được công nhận trong hệ thống phân cấp chính quy của nhà nước phong kiến Việt Nam, mà cấp cơ sở được quy vào thôn và xã. Làng có thể có những luật lệ riêng, mang tính tự phát và không hoàn toàn tương thích với luật pháp của nhà nước. Đây là các dấu hiệu cho thấy mô hình Làng đã hình thành một cách tự phát từ rất lâu trước khi xuất hiện các triều đình Đại Việt, với phương thức quản lý xã hội theo kiểu tập quyền Nho giáo.

Đến nay thì người ta vẫn còn khá mù mờ về nguồn gốc của khái niệm Làng.

Trong tiếng Mường, một ngôn ngữ được coi là cùng gốc với tiếng Việt hiên nay, có các khái niệm Làng và Lang. Khái niệm thứ nhất đồng nghĩa là Làng. Khái niệm thứ hai người đứng đầu một khu vực địa phương nào đó. Trong tiếng Champa cũng có khái niệm Làng.

Liệu có thể có một từ trong tiếng Champa mà nhìn theo góc độ nào đó thì bao quát cả các từ Làng và Lang và là cơ sở phát sinh các khái niệm này?

Từ góc nhìn của vua chúa ở nội thành thì Làng là các vùng dân cư bên ngoài, Quan lang là quan cai trị ở các khu vực bản làng.

Trong tiếng Champa, bên ngoài được gọi là Blang. Blang là một đáp án thỏa mãn cho cách giải thích rằng Làng (và Lang), được phát sinh từ khái niệm chỉ tính chất này.

2. Thành

Thế còn khu vực trung tâm thì trong tiếng Champa gọi là gì?

Theo cách nhìn truyền thống thì đối lập với Làng chính là Thành phố (hoặc gọi ngắn gọn là Thành hay Phố). Trong tiếng Champa, khái niệm này được gọi là Ting, với cách phát âm khá gần với Thing.

Có một địa danh gọi là Thậm Thình mà theo nhiều nghiên cứu trên cả lĩnh vực văn hóa dân gian và khảo cổ, đã nhận định đây từng là một thành lớn thời Vua Hùng. Vậy thì Thậm Thình có thể nghĩa là cái thành rất lớn, mà Thình tức là âm cổ của Thành. Việc giải thích Thậm Thình là từ tượng thanh mô phỏng tiếng chày giã gạo như giả thuyết ngày nay vẫn lưu truyền có vẻ thiếu cơ sở vững chắc.

Liệu từ Thình có phải là phiên bản cũ của từ Thành không?

Trong sự biến đổi theo thời gian của tiếng Việt, có hiện tượng hoán đổi giữa nguyên âm a và i trong nhiều trường hợp, ví dụ “Thinh hoa”, “Thinh chương” là tên của “Thanh Hóa”, “Thanh Chương” ở thế kỷ 17 (theo tài liệu viết tay năm 1632 của linh mục Gaspar d'Amaral, nay đã được in trong sách Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659 của Đỗ Quang Chính). Trong các từ “làm thinh”, “thinh không” thì “thinh” cũng tức là từ “thanh”. Có thể cho rằng đây là hiện tượng bảo lưu âm cổ trong một số từ ghép, trong khi từ đơn đã biến đổi, theo cách tự nhiên hoặc theo ý chí của tầng lớp bên trên.

Kết hợp với các chứng cứ và diễn giải phía trên thì có thể cho rằng Thành tức là Thình, tức là Tìng.

Nhân đây cũng cho thấy Thành (Ting/Thình) là từ bản địa được gán đồng nghĩa với chữ 城 (chéng) chứ không phải là từ gốc Hán như người ta vẫn quan niệm.

Vậy khái niệm Vua Hùng có lên quan gì với âm Champa không?

3. Vua Hùng

Trước hết, chúng ta hãy để ý rằng trong tiếng Champa có từ Po (vua, thủ lĩnh). Trong tiếng Việt cổ có từ Bố cũng nghĩa là vua, thủ lĩnh. Từ này cũng có thể cùng gốc với Bô (ông bô, bà bô) và Bu.

Trong tiếng Hán cũng có từ Pó/Po (婆) chỉ người phụ nữ lớn tuổi, chữ này người Nhật đọc là Ba, người Hàn đọc là Pa. Đây có thể là hiện tượng đồng nguyên, xuất phát từ khái niệm thuộc loại nguyên thủy của loài người, giai đoạn còn theo xã hội mẫu hệ, ở châu Á, mà Bo/Bà/Po/Pa vừa là kẻ đứng đầu mỗi cộng đồng cũng vừa là người phụ nữ lớn tuổi. Theo thời gian, khi xã hội chuyển sang phụ hệ, tức là đã phân biệt, thì nó có thể mang riêng nghĩa là Bà, hoặc nghĩa là Thủ lĩnh, tùy từng khu vực. Trong tiếng Việt Bo/Po dần bị “lạm phát” thành Bố, Bọ (người cha, thủ lĩnh trong gia đình), hoặc thành Bà (người bà trong gia đình hoặc người phụ nữ được tôn trọng). Từ điển Việt – Bồ - La, thế kỷ 17, của Linh mục Alexandre de Rhodes có ghi nhận từ Phô, cách gọi quý ông quý bà với thái độ cung kính, hẳn từ này cũng là một phái sinh của Bo/Po.

Từ điển Việt – Bồ - La và tài liệu viết tay của linh mục Gaspar d'Amaral ghi nhận thời đó người ta gọi Bua để chỉ nhà vua, hoặc thay vì dùng B thì Alexandre de Rhodes dùng một phụ âm khác xếp cùng với B, mà ông mô tả là phát âm vừa giống β trong tiếng Hy Lạp (đọc gần giống V) nhưng ít cứng hơn β, vậy tức là giữa B và V. Đó là dấu hiệu về sự chuyển hóa từ Bua thành Vua, ở thế kỷ 17. Mà Bua là một kiểu biến âm của Bo. Hiện tượng phát âm thêm nguyên âm A sau các nguyên âm O, U khi đứng cuối khá phổ biến trong các phương ngữ tiếng Việt, vd Beà – Bà; Chủ - Chúa, Ló – Lúa; Bo - Boa…

Nay từ Bua (Bua quan) vẫn còn tồn tại trong tiếng Mường và một vài địa phương nói tiếng Kinh, chẳng hạn vùng Huế.

Tóm lại, có cơ sở khá vững chắc để cho rằng từ Vua có phiên bản gốc là Bố/Bo/Po. Đó là cách gọi Vua thời Vua Hùng.

Vậy Hùng là gì mà các vua đều gọi là Hùng, liệu đó có phải là tên riêng không?

Trong tiếng Việt hiện nay Hùng vừa là danh từ chỉ tên người và chỉ dành cho đàn ông, lại vừa là tính từ chỉ sự mạnh mẽ. Ngoài ra còn các từ thuộc dạng đồng âm nữa là hung (hung bạo, hung dữ), húng. Chúng đều có thể xếp vào thuộc tính của giống đực. Các dấu hiệu này cho thấy rất có thể ban đầu Hùng/Hung trong tiếng bản địa nghĩa là Con đực hay người Đàn ông, nhưng về sau nghĩa chính này mờ dần và bị thay thế bởi các từ khác, các nghĩa phái sinh thì lại còn rõ nét. Trên địa bàn Quảng Đông lân cận, từ Hung (雄) cũng mang nghĩa là Đàn ông, Giống đực.

Vậy thì Vua Hùng tức là Vua Ông.

Gọi Vua Ông tức là có khái niệm Vua Bà. Sở dĩ như vậy là vì giai đoạn này xã hội còn nặng tàn tích mẫu hệ. Bằng chứng, là hệ thống tín ngưỡng Vua Hùng ở Phú Thọ coi trọng cả việc thờ bà, tính chất phồn thực trong lễ hội vẫn được duy trì rõ nét.

Vì Hùng đơn giản là Ông chứ không phải danh từ riêng, nên mười tám đời cứ đều gọi là Vua Hùng người ta cũng không chán.

Trên đây chỉ là những nhận định cá nhân.

Nguồn tham khảo:

- Bùi Khánh Thế (cb), Từ điển Việt – Chăm, Nxb Khoa Học Xã Hội, 1996

- Nguyễn Văn Khang(cb), Từ điển Việt Mường, Nxb Văn Hóa Dân Tộc, 2002

- Văn Tân (cb), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa Học Xã Hội, 1977

- Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, Sài Gòn, 1972

- Alexandre de Rhodes, Từ điển Annam – Lusitan- Latinh, nhóm biên dịch Thanh Lãng – Hoàng Xuân Việt – Đỗ Quang Chính, Nxb Khoa Học Xã Hội, 1991

- Từ điển Hán Nôm (hvdic), bản điện tử.

- Trần Văn Thục, Văn học, văn hóa dân gian vùng đất tổ, Nxb Văn Hóa Dân Tộc, 2020

- …


No comments:

Post a Comment