Trước hết, chúng ta thử xem xét một số ví dụ về sự lan tỏa của ngôn ngữ:
– Khái niệm “hài hước”:
Hán: Yōumò, (幽默)
Nhật: Yūmoa (ユーモア)
Nga: Yumor (юмор)
Hy Lạp: Chioúmor (χιούμορ)
Tây Ban Nha: Humor
Thụy Điển: Humor
Armenia: Humor
Anh: ˈ(h)yo͞omər (humor)
…
– Khái niệm “buồn nôn”:
Hán: Nǎo sī (瑙斯)
Anh: Nausea
Nga: Naus
Thổ Nhĩ Kỳ: Naous
Latinh: Naous
Việt: Nôn nao
…
– Khái niệm “xác ướp”:
Ả Rập: Almumyawat (المومياوات)
Anh: Mummies
La Tinh: Mummia
Hungari: Múmia
Nga: Mama
Hindi (Ấn Độ): Mamee (ममी)
Telugu (Ấn Độ): Mam’mī (మమ్మీ)
Thái: Mạmmī̀ (มัมมี่)
…
– Khái niệm “tai”:
Hán: Ěr (耳)
Anh: Ear
Hà Lan: Oor
Đức: Ohr
Na Uy: Øre
Macedonia: Uvo
…
– Khái niệm “vải thiều”:
Hán: Lìzhī 荔枝 (phát âm là Lichi); âm Quảng Đông là Leichi
Nga: Lichi
Hindi: Leechee (लीची)
Thái: Lîncī̀ (ลิ้นจี่)
Nepal: Licī (लिची)
Telugu: Licī (లిచీ)
Lào: Li chi (ລີຈີ່)
…
…
Có thể cho rằng đây đều là các trường hợp đồng nguyên chứ không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên, và sự lan tỏa có tính chất liên lục địa này nhìn chung đã xảy ra từ giai đoạn cổ xưa.
Để giải quyết vấn đề đâu là từ gốc không phải là việc dễ dàng, tuy nhiên người ta vẫn có thể xem xét để tìm thấy một phần nào đó của quá trình dịch chuyển.
Các từ chỉ khái niệm “xác ướp” đều chứa âm gần với từ “mắm” trong tiếng Việt, chỉ một loại thực phẩm được làm từ việc ướp xác động vật. Các chi tiết này đủ để cho rằng đây là khái niệm người Việt vay mượn từ những khu vực có nền văn minh phát triển sớm hơn, và việc rút gọn âm (kiểu tiếng bồi) có thể là một tập quán trong tiếp nhận ngôn ngữ.
Các từ chỉ khái niệm “vải thiều”, loài quả chỉ có ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, vì vậy các sản phẩm này hẳn là được giới thương nhân đưa từ phía nam lên phía bắc, kèm theo đó là tên gọi của chúng. Khu vực có vải thiều bao gồm, bao gồm từ Ấn Độ sang phía nam Trung Quốc, mà tên gọi sản phẩm này cũng khá thống nhất. Liệu có khả năng những thương nhân Ấn Độ, hoặc ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, một khu vực có nền văn minh phát triển sớm hàng đầu của nhân loại, là tác nhân gây nên sự lan tỏa này không?
Tản mạn trong một số tài liệu ở Trung Quốc ghi nhận sự hiện diện rất sớm của người Ấn ở khu vực Viễn Đông. Trang Wikipedia có dẫn nguồn cho biết như sau:
“Theo tài liệu Giao Châu ký (交州記, thế kỷ IV) của Lưu Hân Kỳ (劉欣期) thời Đông Tấn, thì “…Thành Nê Lê ở phía nam huyện Định An, cách sông bảy dặm, tháp và giảng đường do vua A-dục xây dựng vẫn còn. Những người đốn hái củi gọi là Kim tượng.”[3]
Sách Thủy kinh chú (thế kỷ VI) của Lịch Đạo Nguyên thời Bắc Ngụy, dẫn theo sách “Lâm Ấp ký” (林邑記) chép: “Từ Giao Chỉ đi về phía Nam, có ngách sông chảy ra từ phố Đô Quan Tắc. Con sông này từ phía đông đi qua huyện An Định, đi ngang với sông Trường Giang ở phía Bắc. Trong sông, có nơi Việt vương đúc thuyền đồng. Khi nước triều rút, người ta còn thấy dấu vết. Sông lại chảy về phía đông, cách sông có thành Nê Lê, nghe nói là do vua A-dục dựng.”[4]
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%AA_L%C3%AA
A Dục Vương, tức là Ashoka (30-232 TCN), một vị vua nổi tiếng ở Ấn Độ (https://vi.wikipedia.org/wiki/A-d%E1%BB%A5c_v%C6%B0%C6%A1ng). Giai đoạn này tương ứng với cuối thời Chiến Quốc, người Hán vẫn hoặt động chủ yếu quanh lưu vực sông Hoàng Hà ở Hoa Bắc chứ chưa xuống đến Lĩnh Nam.
Bây giờ chúng ta hãy xem xét mối liên quan từ vựng giữa ngôn ngữ Ấn Độ, Hán và Việt (từ Hán Việt) qua các ví dụ sau đây:
Sự hiện diện của nền văn minh Ấn Độ còn có thể lan tỏa lên phía bắc Trung Quốc rất sớm, qua những ghi nhận về chữ Khoa đẩu, một loại chữ được gán với con nòng nọc. Đây là kiểu chữ mà theo một tài liệu của con cháu người Chiêm Thành thì đó là văn tự chính thức của họ, mà nhà Trần thì chủ trương cấm, nên không thể là chữ Hán (nguồn https://sites.google.com/a/learning.com.vn/tuyen-sinh/da-nang/du-lich/tham-quan/Van-hoa-nghe-thuat/Bao-tang-cham/nghien-cuu-trao-doi/motbanphochinoivequanheviet-cham). Có thể đó chính là loại chữ cổ kiểu Brahmi ngoằn nghoèo ở Ấn Độ, như một số ký tự sau:
𑀠 𑀡 𑀢 𑀣 𑀤 𑀥 𑀦 𑀧 𑀨 𑀩 𑀪 𑀫 𑀬 𑀭 𑀮 𑀯
Đây là theo dạng chữ in ngày nay. Dạng chữ viết xưa thì như hình sau:

Chữ Brahmi (nguồn https://diepdoan.violet.vn/document/chu-brahmi-438204.html)
Chữ Bharmi là tiền thân của các loại chữ viết ở khu vực Đông Nam Á, trừ chữ Hán ở Việt Nam và chữ Latinh trong một vài thế kỷ gần đây.
“Trúc thư kỷ niên” một bộ sử chép ở nước Ngụy thời Chiến Quốc, chép trên thẻ trúc, bằng chữ Khoa đẩu. Tài liệu này được chôn trong mộ Ngụy Tương vương (318TCN-296TCN), sau này được phát lộ vào năm 280 bởi một kẻ trộm mộ, tức là đã trải qua 576 năm, vì thế mà vượt qua được cuộc đại hủy diệt văn hóa của Tần Thủy Hoàng. Tuy vậy do nguyên nhân nào đó mà bộ thẻ trúc này về sau lại biến mất vĩnh viễn, bản sao cũng không có, mà bản dịch sang Hán văn thì đã vừa bị mất đi nhiều lại bị làm giả nhiều chỗ (theo Trúc thư kỷ niên, bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Đức Vịnh, 2020)
“Khoa đẩu” là âm Hán Việt, còn âm Hán là Kē dòu, viết là 科斗. Hai chữ này tách riêng thì không có gì liên quan đến nòng nọc cả. Rất có thể từ “Khoa đẩu” nghĩa là “nòng nọc” chỉ là vì người ta dựa vào hình dạng chữ để gán ghép. Chúng ta thử xem xét theo từng chữ:
科Kē mang một số nghĩa: hạng, đẳng cấp, bộ phận…
斗dòu mang một số nghĩa: cao, trội, cái đấu (dụng cụ đong) …
Ý nghĩa của từ 科Kē gần với một từ trong tiếng Hindi là ke (के) – của, thuộc về. Từ ke (के) còn có một mở rộng là unakee (उनकी) nghĩa là “của họ”
Ý nghĩa cửa từ 斗dòu (với nghĩa là cao, trội) gần với một từ trong tiếng Hindi là daulat (दौलत) chỉ sự giàu có. Ngoài ra thì nghĩa “cái đấu” được gán ghép với bọn cao trội có thể vì đó là vật gắn liền với bọn thương nhân,tức là gắn liền với sự giàu có, nghĩa là cao trội. Như vậy hẳn là một sự vay mượn chứ không phải trùng hợp ngẫu nhiên, mà dấu hiệu khá rõ ràng là người Hán vốn coi đó là chữ của kẻ giàu, tức là của bọn thương nhân mang đến.
Điều lý thú là hai khái niệm đó cũng tương đối đồng âm đồng nghĩa với các khái niệm “kẻ” – chỉ một người chung chung hay một hạng người, và “giàu” trong tiếng Việt. Vậy phải chăng các từ này xuất trong tiếng Việt cũng từ sự vay mượn, và cũng theo kiểu rút gọn như từ ‘mắm’ nói trên.
Một số từ sau đây của Hán và Hán Việt cũng có dấu hiệu nguồn gốc Ấn Độ:
a. Những từ ghi theo âm Bắc Kinh
नर nar (nam giới) – 男 nán – NAM
माँ maan, मा ma – 妈 Mā
मौ mau (mẹ) – 母 Mǔ – MẪU
मौसी mausee (dì) – 姨 yí – DI
यह yah (nó) – 者 zhě (anh ta, nó, nọ) – GIẢ
मुखिया mukhiya (kẻ đứng đầu) – 牧 mù (kẻ thống trị, chăn dắt) – MỤC
नौकरानी naukaraanee (người giúp việc) – 奴 nú (người hầu, nô lệ) – NÔ
घर ghar (nhà) – 家jiā – GIA
गन्ना ganna (mía, đường mía) – 甘gān (ngọt) – GIÁ
लीची leechee (quả vải) – 荔枝lìzhī – LỆ CHI
फेफड़ा phephada (phổi) – 肺 fèi – PHẾ
पशु pashu (súc vật) – 畜 chù, xù – SÚC
मुर्गी murgee (con gà mái) – 雞 jī (con gà) – KÊ
शेर sher (con sư tử) – 狮 shi – SƯ
साँप saanp (con rắn)- 蛇 shé – XÀ
जल jal (nước) – 江jiāng (sông lớn) – GIANG
धारा dhaara (suối) – 河hé (sông) – HÀ
फिस phis, फ्यय phyay (phí, lệ phí) Phí – (費 bì, fèi) – PHÍ
जालसाजी jaalasaajee (giả mạo); जालसाज jaalasaaj
(người giả mạo); जालसा jaalasa (cạm bẫy) – 假 jiǎ (dối trá) – GIẢ
दुष्ट dusht (độc ác) – 毒Dú (độc hại, độc ác) – ĐỘC
संघ sangh (liên hợp) – 双 suang (cặp, cùng nhau) – SONG
द da (các) – 多 duō (nhiều) – ĐA
हुआ hua (đã xảy ra) – 化huā – HÓA
जाओ jao (đi) – 脚Jiǎo (chân)
बांग baang (bùng nổ) – 砰 Pēng (tiếng nổ, tiếng động lớn)
शुरू shuroo (bắt đầu) – 初 chu – SƠ
हो ho (đúng) – 乎 hū = có đúng không? – HÔ, HỒ
जैसा jaisa (bằng, như) – 偕jiē (đều, cùng) – GIAI
दंड dand (một sự trừng phạt) – 掸 Dǎn (đánh) – ĐÀN
भया bhaya (sợ hãi) – 害怕Hàipà
माल maal (các mặt hàng) – 賣 mài (bán); 买 mǎi (mua) – MÃI, MẠI
लहर lahar (sóng) – 浪 làng, láng – LÃNG
बाँट baant (chia sẻ) – 頒 bān (ban phát, chia cho) – BAN
बंध bandh (liên kết) – 班 bān (toán, tốp, đoàn, lớp…); 邦 bāng (bang, nước);帮bāng (liên kết, băng đảng) – BĂNG
जाँच करना jaanch karana (kiểm tra) – 查看Chákàn
लहंगा lahanga (lò nung) – 炉火 Lú huǒ (ngọn lửa); 炉 lú (cái lò); 火 huō (lửa) – LÔ; HỎA
बड़ा bada (to lớn) – 霸 bà ( trùm, lớn); 大 dà (lớn) – BÁ, ĐẠI
सूजन soojan (viêm, sưng tấy) – 炎 Yán (viêm) – DIỄM
b. Từ ghi theo âm Mân Phúc Kiến
धान का खेत dhaan ka khet – (ruộng lúa) – 田 dzhən (ruộng) – ĐIỀN
c. Những từ ghi theo âm Quảng Đông
मौ mau (mẹ) – 母 mou – MẪU
सच sach, सत् sat (sự thật) – 实 sat – THẬT
मुखिया mukhiya (kẻ đứng đầu) – 牧 muk (kẻ chăn, kẻ đứng đầu) – MỤC
सैनिक sainik (lính) – 使 sai (sai khiến) – SỬ
पाप paap (tội) – 法 faat (phép tắc, pháp luật, sự trừng phạt) – PHÁP
फन phan (vui vẻ) – 奋 fan (phấn khởi) – PHẤN
थप thap (hơn) – 拓 taap (khai triển, mở rộng) – THÁP
या ya (hoặc) – 也 jaa cũng, vậy – DÃ, GIẢ
दक्ष daksh (có hiệu quả), दक् dak (kỹ năng) – 得 dak (được, hiệu quả) – ĐẮC
दुष्ट dusht (độc ác) 毒 duk (độc hại, độc ác) – ĐỘC
मोटा mota (dày, mập) 漠 mok (to lớn) – MẠC
कंपन kampan (rung động) – 感 gam (cảm động) – CẢM
कब् kab (khi) – 急 gap (nhanh, gấp rút) – CẤP
नकाब nakaab (mặt nạ) – 匿 nik (giấu kín, ẩn nấp) – NẶC
नौस naus (buồn nôn) – 瑙斯 nou si
सुख sukh (niềm hạnh phúc) – 福 fuk (Sung sướng) – PHÚC
की kee (của, thuộc về) – 圻 kei (biên, cõi) – KỲ
Theo quan niệm chính thống hiện nay thì các từ mà người ta gọi là Hán Việt, chiếm trên 50% vốn từ vựng tiếng Việt, có nguồn gốc Hán. Tuy nhiên, qua những ví dụ và phân tích trên cho thấy cần xem xét cả yếu tố ngôn ngữ Ấn Độ, và rất có thể có nhiều từ không vay mượn qua trung gian Hán, chỉ là do việc độc tôn chữ Hán qua lâu khiến người ta nghĩ thế mà thôi”.
Xét về khoảng cách địa lý và khí hậu thì khu vực Đông Nam Á, bao gồm vùng cực nam Trung Quốc, gần với Ấn Độ hơn là miền Hoa Bắc, nơi được coi là cái gốc của nền văn minh Trung Quốc, do đó ghi nhận về sự hiện diện của đế chế Maurya ở đây trước thời điểm nhà Tần chinh phục Lĩnh Nam là hoàn toàn có cơ sở, mặc dù không được các bộ chính sử nhắc đến.
Sau đây là các bảng so sánh sự tương đồng giữa tiếng Việt (bao gồm cả lớp từ được cho là Hán Việt) và tiếng Ấn (xét chủ yếu theo ngôn ngữ Hindi).
(Một số phương tiện trợ giúp:
Từ điển tiếng Hindi: https://dict.hinkhoj.com/hindi-to-english/
Từ điển Cambridge đối chiếu Anh – Việt: https://dictionary.cambridge.org/
Từ điển Hán Nôm: https://hvdic.thivien.net/
https://translate.google.com/?hl=vi
…)
NÁC (nước – âm miền Trung)
nadee नदी dòng sông
LẢ (âm miền Trung)
jvaala ज्वाला ngọn lửa
ĐUN (nấu, tức là có khói)
dhuaan धुआं khói
KHE, KHÊ – 溪 si
gaharee khaee गहरी खाई rãnh sâu
LÒ, LÔ – 炉 lú; HỎA – 火 huō
lohaar लोहार thợ rèn; lahanga लहंगा lò
NÔỐC, NỐC – (thuyền – âm miền Trung)
naav नाव thuyền
LÃNG – 浪làng, láng
lahar लहर sóng
GIANG (sông) – 江 jiang
jal जल nước
HÀ (sông) – 河 hé
nahar नहर con kênh
“ĐÔỒM, ĐÔỐM – (đầm, đằm, đắm
– miền Trung)”
doob डूब đắm, bị hút vào, bị vây bọc
BÈ (cái bè)
beda बेड़ा bè, hạm đội
BA
paapa पापा cha, ba
DÌ, DI – 姨 yí/ji
mausee मौसी dì (em gái của mẹ)
ẨU – 嫗 yǔ = mẹ, đàn bà con gái
aurat औरत phụ nữ
MẪU – 母 mǔ/mou
mau मौ mẹ
MẠ
mahila महिला phụ nữ, giống cái; maa माँ mẹ
MÌNH
main मैं tôi, mình
O (cô)
aurat औरत cô gái, giống cái
TẾ (con rể, chồng) – 婿 xù
(betee ka) pati (बेटी का) पति
BẠN
bandh बंध liên kết
TA (chúng ta)
taaj ताज vương quyền
NAM – 男 nán/naam
nar नर nam giới
MỤC – 牧 mù/muk
mukhiya मुखिया người đứng đầu
NÔ – 奴 nú/nou
naukar नौकर người hầu
TRẺ
bachche बच्चे những đứa trẻ
BÉ
bebee बेबी, baal बाल đứa bé
VA – (hắn, ông va, mụ va – âm miền Trung
vah वह anh ta, chị ta
GIẢ – 者 zhě
yah यह nó (đại từ thay thế)
ĐÀN (đội, bầy, đàn)
dal दल đội
BAN (toán, tốp, đoàn, lớp…)
bandh बंध liên kết
BANG (bang, nước, băng đảng)
bandh बंध liên kết
BẦY
bal बल lực lượng
BÈ (bè phái)
beda बेड़ा bè, hạm đội
“KẺ (thuộc về một nhóm,
thể loại nào đó)”
kee की của, thuộc về
GIA – 家 Jiā (gia đình, trường phái, dòng)
jaati जाति nhóm, loài, nòi, đẳng cấp…
MẶT
maatha माथा trán, phía trước
MỒM
mūnh मुँह miệng, mồm
GAN
jigar जिगर gan
PHẾ – 肺 fèi
phephada फेफड़ा phổi
TỲ – 脾 bài, pái
tillee तिल्ली lá lách
DA
chamada चमड़ा da
CẬT
kidanee किडनी quả thận
CHÂN
chaal चाल di chuyển
SỨC
shakti शक्ति quyền lực, sức mạnh
NIÊM (dính vào) – 粘 lian, nián
niyam नियम luật lệ, điều khoản, quy định
PHÁP (phép tắc, trừng phạt) – 法fǎ
paap पाप tội, sai lầm, vô đạo đức
CẢ (đứng đầu)
aaka आका ông chủ, bậc thầy
CẢM (bị cảm)
kamazor कमज़ोर yếu đuối
CẢM (cảm động) – 感 gan/gam
kampan कंपन rung động
PHÚC (may mắn, báo đáp) – 福 fú
sukh सुख niềm hạnh phúc, kết quả
CÁI
kya क्या gì, nào
GÌ, CÁI GÌ
kaise कैसे làm sao
CHI (cái chi, điều chi …)
cheez चीज़ đồ, thứ, vấn đề
CỚ, CỚ RĂNG
kaaran कारण lý do
GIẢ ĐỊNH, GIÁ NHƯ
yadi यदि nếu như
HẲN (chỉ sự riêng biệt)
vahān वहाँ ở đó, ở chỗ khác
HÓA RA, HÓA – 化 hua
hua हुआ đã xảy ra
HẢ, HỞ, HỒ (có đúng không?) – 乎 hū
ha हो đúng
HẲN (hẳn là)
haan हाँ đúng
HOẶC GIẢ
ya या hoặc
VÀ
dvā (âm Phạn) दो hai
VẬY (như vậy, chừng đó)
“vah वह đó,
vahee वही như nhau, như vậy “
Vậy (vậy thì)
vaisa ठीक (vậy thì, vì vậy)
THẾ (vậy, cứ thế)
theek ठीक được, phù hợp
ẮT
at अत vì thế, kể từ đây, rút cục
BÈN
ban बन trở nên
KỲ, KỂ (bất kỳ, bất kể)
kya क्या cái gì, cái nào
NỎ – âm miền Trung
nahin नहीं; nah नह không
SƠ (ban đầu)- 初 chu
shuroo शुरू bắt đầu, ban đầu
NAY
naya नया, nay नय mới
GIAI (cùng, bằng) – 偕jiē
jaisa जैसा bằng, như
BẰNG
baraabar बराबर bằng nhau
ĐẮC (được, hiệu quả) – 得 dē
daksh दक्ष có hiệu quả
KÉM
kam कम ít, thiếu, ngắn hơn
BÁ – 霸 bà; ĐẠI – 大 dà
bada बड़ा (to lớn)
BÉ (bé nhỏ)
bebee बेबी, baal बाल đứa bé
TÍ (bé tí)
choti छोटी nhỏ bé, thấp kém
TY (thấp kém) – 卑 bēi
choti छोटी nhỏ bé, thấp kém
TẾ (nhỏ bé) – 細 xì
choti छोटी nhỏ bé, thấp kém
CHỘT
chhot छोट bé nhỏ
VI (nhỏ, phần nhỏ) – 微 wei
vibhaajit विभाजित chia nhỏ ra
VĨ (to lớn) – 伟 wei
vishaal विशाल to lớn
TỐC
tez तेज़ nhanh
CHẬM RÌ
deree देरी chậm trễ
SANG
shaan शान tráng lệ, phẩm giá, tự hào
GÀN
paagal पागल gàn dở
KỀ
ke paas के पास gần, kề
SÁT
saath साथ với, cạnh
BÊN
baen बाएं bên trái, hai bên
SONG
sangh संघ liên hiệp, cùng nhau
HÃI
bhaya भया sợ hãi
U – 怮 jau
udaa उदास s u buồn
VUI, KHOÁI
khush खुश vui
ĐAU
dard दर्द đau
THA (nó, khác) – 他 ta
tak तक cái đó, khi đó
TÀN – 殘 cán
patan पतन suy tàn
NÁT
nasht नष्ट bị phá hủy
CHÂN (soi xét, phân biệt) – 甄 juàn
chhalछl gian dối)
CHÂN (thật, thực) – 眞 zhēn
chhal छl gian dối
THẬT – 实 shí
sat सत् thật
GIẢ
jaalasaajee जालसाजी giả mạo, gian lận
ĐỘC (độc hại, độc ác) – 毒 dú/duk
dush दुष्ट độc ác
NẶC (giấu kín) – 匿 nì/nik
nakaab नकाब mặt nạ
TÀN ÁC
taanaash तानाश bạo chúa
NẾT
nek नेक sự lương thiện
ÍT; ÍCH – 益 yì(thêm, nhiều lên)
ek एक một, đơn độc
ĐẦY
dher ढेर nhiều, đống
ĐA – 多 duō
zyādā ज़्यादा nhiều
ĐÔI (hai)
dau दौ, dui दुई hai
TAM (ba) – 三 san/saam
teen तीन ba
TƯ (thứ tư); TỨ (bốn) – 四 sì
“chatush (catu – âm Phạn) चतुष्
thứ 4, gấp 4″
THẤT (bảy) – 七 si
sat सात bảy
SÁU
sat (âm Phạn) छह sáu, ṣaṣṭha षष्ठं thứ tự 6
HẾT
has हास sự cạn kiệt
MẠI (mua) – 卖 mài; MÃI (bán) – 买mǎi
maal माल các mặt hàng
CHỢ
cheezen चीज़ें hàng hóa
PHÍ – 費 fèi
phis फिस lệ phí
SẮM (sắm tài sản)
sampatti संपत्ति của cải, tài sản
THƯƠNG – 商 shan
thok थोक mua buôn
VAY
vyay व्यय chi phí, giải ngân
LÃI
laabh लाभ lợi nhuận
THAY
asthaayee अस्थायी tạm thời
TRA KHÁN (kiểm tra) – 查看 chákàn
jaanch karanaजाँच करना kiểm tra
BÁO – 報 bào
badala बदला sự trả thù
ĂN
khānā खाना ăn
BẮT
pakadana पकड़ना bắt, nắm lấy
BÀN
bahas बहस bàn bạc
BẮN
baan बाण mũi tên
BỎ (vứt bỏ)
bojh giraana बोझ गिराना (vứt bỏ);
HẮT
hataana हटाना bỏ, dời
BÚ
bhookha (bukha) भूखा đói bụng
CA
gakar गाकर ca, hát
KỂ
“kah कह nói,
kahana कहना kể, đề cập “
LA
chilla चिल्ला la hét
BÔ LÔ BA LA (nói huyên thuyên)
bolo बोलो nói
GIẢNG – 講 jiǎng
jānā जानना (biết, hiểu, nhận ra)
VIẾT
“vid विद् học giả,
người có nhiều kiến thức “
GÁY
gāyan गायन ca hát
BÁI – 呗 bài = tụng kinh; 拜= vái, tôn kính
bhaj (Phạn) भक्ति tôn thờ, thờ cúng
CẤT
ikat इकट् sưu tầm, tập hợp lại
CẮT
kaat काट cắt
A (sấn vào, a vào)
aa आ đến, vào
ĐI
edee एड़ी gót chân
LAO
teer chalao तीर चलाओ lao nhanh, bắn tên
CHẠY
chaal चल di chuyển
BỆT (ngồi bệt)
baith बैठ ngồi
ĐÁNH, ĐÀN (phê bình, hạch tội) – 弾 dàn
dand दंड một sự trừng phạt
ĐẬP
daba दबा đàn áp
VẠ (nằm vạ)
vaha वहा ở đó
CHỜ
chaah चाह sự mong muốn, đòi hỏi
ĐẺ
ande अंडे trứng, trẻ em
ĐỂ
dena देना cho
ĐỀN
paise dena पैसे देना đưa tiền, đền
LẤY
lena लेना lấy
BAN ( ban phát, chia cho)
baant बाँट chia sẻ
SẺ, CHIA SẺ
sheyar शेयर chia sẻ, phần
GẠT
ghat घट giảm bớt
CHỌN
chun चुन chọn
CHÔM, TRỘM
chor चोर trộm
LỘT
loot लूट cướp bóc, trộm
ĐƯA
diya दिया đã đưa cho
ẤP
upar ऊपर ở trên
GIÃ (từ giã, giã biệt)
jaana जाना đi
HÔN
honth होंठ môi
MẢNG (gắn tâm trí vào cái cái gì đó)
manमन tâm trí
KHẢI (gãi ngứa – âm miền Trung)
khaj खज ngứa
KHAO
khaana खाना; khā खा ăn
KHIẾN, KHIỂN – 遣 Qiǎn
kheench खींच , khin खीं sự lôi kéo, vẽ ra
ĐÀ (cõng trên lưng) – 佗 tuō
udaar उदर bụng
CỘT (buộc)
kadeedaar कड़ीदार cứng nhắc, ràng buộc
PHÁT – 发 fa
phat फट nổ, hành động bùng nổ
PHUN
phoonk फूँक thổi
SAI (sai bảo)
sainik सैनिक lính
TRÚT
chhud छुड giải phóng, thả ra
KHUẤT (thua) – 屈 qu
khona खोना thua
MẶC – 嘿 hēi, mò
muk मुक im lặng
MẠT (khử, xóa cắt, sụp xuống) – 抹 ma
maar मार giết, đánh, đánh bại
SÚC – 畜 Chù
pashu पशु súc vật
VẬT – 物 wù
vastu वस्तु sự vật, thứ
CHIM
chiriya चिड़िया con chim
CHUỘT
chooha चूहा chuột
GÀ
murga मुर्गा con gà
GÀ MÁI GHẸ
murgee मुर्गी gà mái
QUẠ
kaua कौआ con quạ
SƯ TỬ, SƯ – shī
sher शेर con sư tử
XÀ – 蛇 shé
saamp सांप con rắn
NGỌ
ghod घोड़ con ngựa
SỪNG
seeng सींग sừng
CÁ
shikaar शिकार ăn bắt, con mồi
CÁY (con cáy, chỉ sự nhát gan)
kaayar कायर nhát gan
CHẤY, CHÍ – âm miền Trung
chichada चिचड़ा côn trùng hút máu
CHÈ
chaay चाय chè, trà
MẮM
mamee ममी xác ướp
NÊM
namk नमक muối
MẬT
madhu मधु mật ong
LỆ CHI – 荔枝lìzhī
leechee लीची quả vải
MĂNG CỤT
maingost मैंगोस्ट măng cụt
MÍT (quả mít)
mith मीठ ngọt
TRĂNG
chandra चंद्र từ Phạn = “sáng”, “chiếu sáng”
MÂY
megh मेघ mây
XUÂN – 春chun
vasant वसंत mùa xuân
RÁC, RẮC
rákh राख tro
CỐC
kap कप cái cốc
MA
aatma आत्मा linh hồn
MẢ
makabara मकबरा lăng mộ
NẤM
nam नम ẩm ướt
TINH – 精 jing
tel तेल tinh dầu, nấu dầu
CỘT
kolam कॉलम cái cột
XÀ
krosabaar क्रॉसबार xà ngang
VÁCH
vaal वाल tường
NỀ
nirmaata निर्माता thợ xây, thợ nề
CỬA GIẢ (cửa rả, cửa nói chung)
darvāza दरवाजा” cửa
KHO (nơi chứa giữ)
kho खो mất, lớp vỏ bọc
TỎA (khóa, cái khóa) – 鎖 suo
taala ताला cái khóa
CUỐC
kudaal कुदाल cái cuốc, việc cuốc
TÊN, TIỄN – 箭jiàn
teer तीर mũi tên
CÔN – 棍 gậy, bó lại
gol गोल tròn
RÁNG
rang रंग màu sắc
SẨM
shaam शाम tối, đêm xuống
SẪM
shyaam श्याम đen nhẹ, sậm
LÒM (đỏ lòm)
laal लाल (màu đỏ)
TÁN, TẢN – 散san
vighatan विघटन giải tán
CƠN
kaal काल thời gian, giai đoạn
BẬN
baar बार lần, bận
ĐỘ (đo lường, mức độ, lần) – 度 dù
dūr दूर khoảng cách
DẶM (đo khoảng cách), DẪM
kadam कदम bước chân
MIỀN
mein में bên trong
ĐẤT
dharatee धरती đất
ĐIỀN – 田 tián
dhaan ka khet धान का खेत nông trại
SÁ (đường sá)
sadak सड़क con đường
LÀN
chalan चलन xu hướng, xu thế
CHỖ, CHỐT
chhod छोड rời khỏi
TẦNG
taal ताल nhịp
CÁN, CĂN (gốc rễ) – 根 gēn/gan
kand कंद củ
LẠI
laay लाय mang đến, mang lại, đáng giá
LY (dời ra, chia lìa)
lee ली lấy đi
Cho đến nay thì quan điểm phổ biến đều cho rằng tiếng Việt chịu ảnh hưởng rất sâu sắc của tiếng Hán. Tùy theo mức độ khác nhau, có trường phái cho rằng tiếng Việt là một nhánh địa phương của tiếng Hán, tiêu biểu cho trường phái này là nhà ngôn ngữ học Vương Lực. Maspero, một học giả thời đầu thế kỷ 20 mặc dù cho rằng tiếng Việt là một nhánh riêng nhưng vẫn đưa ra con số tỉ lệ là 60% từ gốc Hán trong tiếng Việt. Nhiều tác giả khác đưa ra những con số nhỏ hơn, có thể do số lượng từ vựng của các ngôn ngữ khác thâm nhập vào tiếng Việt ngày càng tăng, do nhận thức khác nhau về yếu tố gốc Hán, hoặc do ý chí. Yếu tố Hindi đã không được đề cập đến trong các giáo trình ngôn ngữ học về tiếng Việt. Các ví dụ trên cho thấy người ta đã xây dựng sai một bản lý lịch cho tiếng Việt.
Còn tiếp